GS NGUYỄN
VĂN TRƯỜNG
GS Nguyễn văn Trường
-Cựu Giáo sư Đại học Sư Phạm Sàigòn
- Cựu Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trước 1975.
|
Từ
“xã nghĩa”, không là của tôi. Nó là lời lẽ của chú tài xế Chi, người lái xe
Honda ôm đưa ông Năm từ Cần Thơ về Phụng Hiệp, thăm một người bạn cố tri. “Xã
nghĩa” là rút ngắn của “xã hội chủ nghĩa,” “chủ nghĩa anh hùng cách mạng,” là
“hướng đi tất yếu của thời đại,” là “đây rồi,”[2]
“sông có cạn núi có mòn, nhưng chân lý “xã nghĩa” ấy không bao giờ thay đổi,”
và không biết bao nhiêu ý nghĩa ẩn tàng mà có thể suy ra từ đó. Tài thật! Súc
tích, rõ ràng, chính xác. Hai từ thôi! mà bao hàm cả một triết thuyết vĩ đại.
Một triết thuyết đã làm loài người mê muội, và triệu triệu người khiếp đảm suốt
non một thế kỷ.
Nhưng
tài dùng từ của anh tài xế không ngừng ở
đó.
Anh
càu nhàu:
“Biết
mà vẫn không tránh khỏi!”
“Biết
mà!” cái âm vận đó như đánh thẳng váo tâm tôi.
Hồi nhỏ, và ngay những năm tôi còn học trường Phan Thanh Giản Cần Thơ,
lớn đại rồi chớ, thế mà còn hư lắm, nên
lắm khi anh chị tôi, hay ba má tôi, vẫn còn than phiền: “Tao biết mà...”
“Biết
mà!” Vì thế mà thân thiết với tôi. Biết mà!” nói lên một bất như ý, phiền não, bực mình. Biết trước
đấy; nên trong lòng hi vọng sẽ không
gặp, không đến nổi nào phải gặp; vậy mà sự việc cũng đến, một “sự cố”, một nguy
cơ, một vận rũi, bất chợt phải ôm lấy. Cho nên, tuy đọc thầm, nhưng nghe vang
dội, cái giọng Cần Thơ, Cái Răng, Cái Vồn, Cái Côn, Cái Sắn,..ấy.
Ở
Mỹ nầy, đã gần hai thập niên, “chơi lâu,” tưởng như trong một chuyến trở về,
được nghe lại: “Biết mà!”, thật là thấm,
thấu tận trong lòng. Thật khéo
làm động lòng người.
Khéo!
Vì với hai tiếng “biết mà”, tài xế Chi hoàn tất một bức tranh: Chi, ông Năm, xe
Honda ôm, xẹp cả hai bánh, ở khoảng Lộ Tẻ Hàng Gòn. Hàng Gòn có thể mất đi từ
lâu theo luật vô thường của tạo vật, nhưng cái tên Lộ Tẻ Hàng Gòn, bình dị, dễ
thương, gần gũi ấy đã gắn liền trong bộ
nhớ của ông Năm, nhớ tới già, tới chết.
Tác giả không mô tả cảnh vật bên đường, nhà cửa, con người,.., để cho người đọc
tung tăng trong tưởng tượng, hay bới móc tro tàn dĩ vãng.
Khéo
hơn! Vì “biết mà!” cũng mở đầu câu chuyện, chánh đề của truyện:
“Rác”
***
-Biết
mà!
-Cái
gì vậy?
-Thì
cái vụ rãi đinh xuống mặt đường.
-Thường
xảy ra lắm sao?
-Không
thường thì bọn nó lấy gì ăn.
-Ăn
đinh?
Câu
hỏi ngớ ngẩn làm tôi phải bật cười, cái cười vô duyên, vì nghĩ lại, ngược gió,
nghe không rõ, lặp lại để được xác nhận là bình thường.. Nhưng tài cế chi đã
vội giải bày: “Nó không ăn đinh, mà mình ăn đá.” Mà còn lôi thôi, có thể “ăn
đòn” . Lời qua lại chỉ ba lần, gói gọn trong
6 câu, mà từ ‘ăn’ lập đi lập lại những 6 lần, ‘ăn, ăn đinh, ăn đá, ăn đòn’,
đối đáp, nhảy nhót gieo âm vận, gieo ẩn nghĩa dị biệt, nối tiép như đối chọi,
khác mà không khác, vì họ ‘giao banh’ nhịp nhàn qua lại một cách dân gian, tự
nhiên.
Nếu
được hỏi về cổ nhạc Miền Nam, tôi sẽ đáp: miến Nam chỉ có nhạc mới, vì Miền Nam là đất mới; trong cái mới đó, bài
Vọng Cổ, từ sơ khai ‘Hoài Lang’ đến bây
giờ luôn là hồn, là tình tự, tâm tư, lý luận, là cái chất—thực chất—của người
Nam.
Trong
chiều hướng đó, người Nam không có văn chương, trong cái nghĩa khoa bảng, bóng
bảy, trao chuốc, tinh xảo, nhiều hình tượng, mượn sự tích trong cổ văn Trung
Hoa. Văn thơ miền Nam vì vậy có tiếng là chân chất, thật thà, bình dân, không
màu mè, thẳng sâu vào lòng người, thiếu
tinh tế, thiếu cái thanh nhả thượng lưu, không có cái thâm sâu tri thức.
Nhưng
ngôn từ của tài xế Chi là một thứ văn chương của người sành đời, sành điệu ngày nay. Nó cho ta hình dung một con người biết marketing, biết tâm lý
khách hàng, không chỉ đơn thuần bán dịch vụ, tiền trao cháo múc. Ông khách Việt
Kiều, thì gần như nơn 90% trước kia là nạn nhân xã nghĩa. Gọi ông Năm bằng bố
là thân thương, tạo cơ duyên cho giao lưu, đối thoại. ‘Xã hội chủ nghĩa’ gút thành’xã nghĩa’ bao
hàm một pejorative meaning. Rồi thêm cái
cliche ‘cái ngày mà ông cột đèn nếu có chân cũng vượt biên’[3].
Tài xế Chi tiến bộ lắm, hiện đại lắm, nhưng vẫn không ra khỏi cái ngôn từ dân dã, thật thà, bình dị của nhịp điệu song lang.
Tài xế Chi tiến bộ lắm, hiện đại lắm, nhưng vẫn không ra khỏi cái ngôn từ dân dã, thật thà, bình dị của nhịp điệu song lang.
‘Sự cố’—từ mới mà đã vào ngôn ngữ bình dân, và dùng như để cân bằng vói’xã nghía’—là xe ăn đinh, tạo duyên lành cho tài xế Chi và ông Năm dừng lại quán cốc bên đường, mà phía dưới gió, tọa lạc một ‘đống rác to, và cao như một ngọn[4] đồi nhỏ’, và mở đầu cho chánh đề, như đã thưa trên:
Mấy
đứa nhỏ vá xe vốn là rác, vì là cái
‘thứ’ bị thảy, loại bị vức bỏ, sống bên lề xã hội; không ai muốn gặp chúng, gặp
chúng là có chuyện, thường là chuyện rũi. Vì gặp chúng, xe ông Năm phải ăn
đinh. Cái thứ ‘đá cá lăn dưa, nằm cầu tàu thổi ống tiêu’ nầy, xưa nay đâu cũng
có, nhưng với ông Năm, người Cái Răng, hay miệt Phong Điền chung quanh đó, của
thời đất còn rộng, dân thưa, rác Cần Thơ còn ít, chưa lan đến đây, nên Ông Năm
ngạc nhiên:
‘-Dân Cần Thơ, Cái Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà’. Sao lại như vậy?’
‘Thì có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây..càng ngày càng nhiều, càng hung hăn con bọ xít’
Kẻ lạ, người ngoài, xa lạ, là thứ bá vơ đâu đó, một thứ bò xít hôi hám khó chịu, phá hại cây trái, nếp sống an bình ở đây. Nó lạ, vì xác nó là VN, mà hốn thì du nhập tận Phương Tây. Mấy đứa nhỏ rác ruới vá xe, vì đói khổ, chận khách đòi chút cháo, còn mấy người xa lạ đó, thì chiếm đoạt nhà cửa, đất đai, tất cả mọi phương tiện sinh sống—mà họ gọi là phương tiện sản xuất—và luôn cả lễ nghĩa. Họ đặt ra một lễ nghĩa mới, không giống ai: con cái thoát ly gia đình, hài tội mẹ cha, anh chị em ruột thịt, nếu cần,.....
Tài xế Chi không nhiều lời, mà tôi, người đọc , có sống gần hai thập niên ‘xã nghĩa’, cảm nhận, thấm, hoài tưởng những vết thương không bao giờ lành mà những vi trùng xã nghĩa gây nên trong lòng dân tộc.
Thế nên, tôi thích thú cách ăn nói của tài xế Chi, tuy cảm nhận một hậu vị đắng và xót. Nhưng xếp chánh quyền và đám đói rách vá xe nầy chung vào một loại, thiết nghĩ không đúng. Không thể sánh bọn cướp vặt với bọn cướp nước, chiếm đoạt mọi phương tiện sinh sống, tóm thu mọi thành quả lao động, để tùy tiện phân phối và chi phối quấn chúng, áp đặt một lễ nghĩa khác, một thang giá trị khác, để biện minh tính cách chính đáng của một sự nô lệ hóa có bài bản.
‘-Dân Cần Thơ, Cái Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà’. Sao lại như vậy?’
‘Thì có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây..càng ngày càng nhiều, càng hung hăn con bọ xít’
Kẻ lạ, người ngoài, xa lạ, là thứ bá vơ đâu đó, một thứ bò xít hôi hám khó chịu, phá hại cây trái, nếp sống an bình ở đây. Nó lạ, vì xác nó là VN, mà hốn thì du nhập tận Phương Tây. Mấy đứa nhỏ rác ruới vá xe, vì đói khổ, chận khách đòi chút cháo, còn mấy người xa lạ đó, thì chiếm đoạt nhà cửa, đất đai, tất cả mọi phương tiện sinh sống—mà họ gọi là phương tiện sản xuất—và luôn cả lễ nghĩa. Họ đặt ra một lễ nghĩa mới, không giống ai: con cái thoát ly gia đình, hài tội mẹ cha, anh chị em ruột thịt, nếu cần,.....
Tài xế Chi không nhiều lời, mà tôi, người đọc , có sống gần hai thập niên ‘xã nghĩa’, cảm nhận, thấm, hoài tưởng những vết thương không bao giờ lành mà những vi trùng xã nghĩa gây nên trong lòng dân tộc.
Thế nên, tôi thích thú cách ăn nói của tài xế Chi, tuy cảm nhận một hậu vị đắng và xót. Nhưng xếp chánh quyền và đám đói rách vá xe nầy chung vào một loại, thiết nghĩ không đúng. Không thể sánh bọn cướp vặt với bọn cướp nước, chiếm đoạt mọi phương tiện sinh sống, tóm thu mọi thành quả lao động, để tùy tiện phân phối và chi phối quấn chúng, áp đặt một lễ nghĩa khác, một thang giá trị khác, để biện minh tính cách chính đáng của một sự nô lệ hóa có bài bản.
Thế
nhưng, cũng không trách được sự vô tâm nhầm lẫn của tài xế Chi. Đó là tâm lý thường tình của
người yếu, người bị hiếp, bị cái chánh quyền đó áp đặt, bị mấy thằng nhỏ nầy
chận đường đòi chút cháo: thật là ‘cá mè một lứa’.
Trên
khoảng đường vào cái quán lụp xụp bên gần đó, trong cái khoảng trống vô ngôn vô
sự ấy, ông Năm hồi tưởng lại nơi nầy, xưa kia, 25 năm về trước ,...., có một
con hổ kiêu hùng, một thời là huyền thoại dân gian: Hai Cọp.
Vào
cái tuổi thất thập, và hơn nửa đời [5]
vắng bóng trên quê hương, chỉ một cấn thoáng, những ký ức thời niên thiếu trở
lại, như mới hôm qua. Tâm lý tuổi già, cũng là tâm lý của ông Năm.
Hai
Cọp là người hùng đánh trận Cái Răng, Bót số 10, Tây Râu Đỏ. Vang vội một
thời. Có trí, có tài, có gan, có mật,
có lòng với đồng bào, quê hương đất tồ, và cũng có cơ duyên may mắn. Đó là cái
một thời được báo chí ca tụng, dân gian truyền tụng, rộng khắp Miền Sông Hậu.
Nhưng rồi mọi việc được lãng quên theo thời gian. Không ai nghe tiếng tăm gì về
ông nữa. Nơi phục kích, được dựng lên
Bót số 10, mà giờ đây, là một đóng rác vĩ đại. Việt Nam cái gì cũng lớn cũng vĩ
đại. Thành công chưa đủ, phải đại thành công. Rác rến thành công vĩ đại, rác từ
trên xuống, từ dưới lên, lan rộng “cùng khắp”. Ở bất cứ đâu, thời nào cũng có
rác, nhưng từ ngày được “giải phóng”, rác đã tự do phát triển, nhân điển hình
tiên tiến, hàng đầu trong các “chiến sĩ thi đua xã nghĩa”.
Hai Cọp vô tình đem rác xã nghĩa vế đây, và nơi cái bót nhỏ bé mà có một lần ông hủy diệt, giờ đầy là một ‘quả đồi rác’. Khi trước là Tây—thực dân[6]—giờ là rác ‘xã nghĩa’, ‘ăn dân’, và làm ô nhiễm môi trường dân tộc Việt..
Nhưng đó là nghĩ suy của riêng một đọc giả. Giờ hãy trở lại câu chuyện Rác
Hai Cọp vô tình đem rác xã nghĩa vế đây, và nơi cái bót nhỏ bé mà có một lần ông hủy diệt, giờ đầy là một ‘quả đồi rác’. Khi trước là Tây—thực dân[6]—giờ là rác ‘xã nghĩa’, ‘ăn dân’, và làm ô nhiễm môi trường dân tộc Việt..
Nhưng đó là nghĩ suy của riêng một đọc giả. Giờ hãy trở lại câu chuyện Rác
‘Xe
chưa dừng lại hẳn thì đã có mấy thằng
nhỏ giành giựt khách....’ Đó là hiện tượng đói, không chỉ đói cái ăn, cái mặc,
mà còn đói chữ nghĩa, đói lễ giáo, cũng là dấu hiệu của sự còi cọc, nói riêng
còi cọc trí tuệ, khô trơ xa lạ với tình thương.
Cái tuổi mà bình thường giờ đó phải ở lớp học, hoặc được sưởi ấm trong
sụ chăm sóc của mẹ cha, thì giờ đây bị đẩy ra góc đường nầy, Ngã Ba Lộ Tẻ,
để...chỉ vì mót miếng ăn. Những thứ nầy,
rác rưới, mùi hôi thối, những đứa trẻ bất hạnh thành rác ở vệ đường, tài xế
Chi, ông Năm đều là phụ, đã đến giờ của nhân vật chánh trong câu chuyện.
Đó
là:
một ông già mót
rác,
tuổi khoảng 70,
vai mang một bọc
nylon, túi đựng rác
hướng vế quán
cóc.
hỏi chuyện
‘không mặn trả
lời’
‘mặc áo thung ba
lỗ
quần kaki xanh á
bạc màu’
chân—giờ nầy, mà
còn— mang dép râu.
Một
ông già xơ xát, lạnh nhạt với tha nhân. Nhưng ông Năm, cũng vào cái tuôi thất
thập, trong tâm trạng muốn sống lại thời
niên thiếu xa xôi, như bắt gặp được đồng minh, đồng cảnh, cơ hội bằng vàng để
bộc lộ, chia xớt ký sự ngày xưa. Thế
nên, ông ‘ tự nhiên xàng qua
ngồi chung bàn với ông già. Ông muốn mời ông già giải khát.’ Ông già từ chối.
Và
với mỗi câu hỏi của ông Năm ông già đáp nhát gừng, ‘ngang như cua bò’, ông lạnh nhạt, như không
xem người đối diện vào đâu. Nhưng gặp phải tay tài xế Chi, thì ông bị mắc câu,
vì Chi gởi đúng vào chỗ ngứa của Ông :
‘-Trước
75, rác rưới đã có nhưng chưa nhiều, Sau 75, rác nhiều hơn, rác khắp nơi.
-Rác
từ làng đến tỉnh, từ trên xuống dưới. Chú em nhỏ mà rành chuyện đời nay bộn
há.’ Ông đáp ngay và tỏ ra đồng tình.
‘-Đúng
y chang ! Tía nuôi nói đúng hết xẫy !.. Rác từ..., từ đồng bằng ra
hãi đảo.’ Tài xế Chi mở rộng bẩy, và Ông Già
thoải mái bước vào. Ông sắp mở lòng mình thì ông Năm làm ông khựng lại,
vì bị hỏi về gia cảnh. ‘Có con mà như không.’ Có nên chăng hiểu rằng thời xã
nghĩa, con cái không là của mình mà là của chế độ, cho nên : có mà như
không, ‘mạnh ai nấy lo’. Và như vậy hiểu rằng chúng nó vô nghì cũng được, hiểu
rằng chúng không lo nổi cho tự bản thân thì làm sao mà lo thêm cho mình
được,... hiểu sao cũng được.
Vào
bẩy, Ông già gần gũi hơn với hai khách lạ.
-Ông anh chắc là dân cố cựu ở đây ?
-Ừ.
Nhưng mà chỉ đúng một nửa.
Tôi
cảm nhận có một cái gì đó làm ông nghẹn ở cổ, có một cái gì đó buột ông bảo là
chỉ đúng phân nữa mà thôi.
Thêm một lần nữa
bà chủ quán đở lời xác nhận, đờng thời giớ thiệu ông già
mót rác :’anh Hai đây chỉ mới trở về sau 75’
Đúng ra, ông Năm phải hểu ngay là ông Hai đi theo cách mạng. Nhưng cái bên ngoài tiều tụy của ông già Hai, cái nghề mót rác sinh nhai buộc ông Năm phải nghĩ khác : hoặc làm ăn xa, bị đánh tư sản, hoặc lính cũ VN cộng hoà tan hàng sau ngày Sài gòn thất thủ.
Bà chủ quán phải giới thiệu thêm quá trình cách mạng của ông già Hai. Thì ra, ông đã hiến trọn tuổi trẻ và trung niên của ông cho nơi côn nhau cắt rốn nầy, ông đã vào sanh ra tử, trực diện chiến trường, ông phải hãnh diện và khẳng định mình là người cố cựu. Ông có vắng bóng nơi quê mùa thân thương nầy trên dưới hai thập niên. Điều nầy, chỉ là bề nổi. Cái thật là quá trình cách mạng của Ông, mà rốt lại là dựng lên một chánh quyền ăn dân còn hơn thực dân gấp bội. Một chính quyền vĩ đại với một chương trình ăn dân vĩ đại. Thế nên ông già Hai mang một mặc cảm tội lỗi với những người dân hiền lành ở đây, thêm một mặc cảm bất lực, thủ phận lượm rác kiếm sống hơn là bương chải trong lợi danh nhơ bẩn. Khí tiết của ông là tâm trạng của Khuất Nguyên[7], người đục ta trong, người say, ta tỉnh, nên ta không có đường sống..
Đúng ra, ông Năm phải hểu ngay là ông Hai đi theo cách mạng. Nhưng cái bên ngoài tiều tụy của ông già Hai, cái nghề mót rác sinh nhai buộc ông Năm phải nghĩ khác : hoặc làm ăn xa, bị đánh tư sản, hoặc lính cũ VN cộng hoà tan hàng sau ngày Sài gòn thất thủ.
Bà chủ quán phải giới thiệu thêm quá trình cách mạng của ông già Hai. Thì ra, ông đã hiến trọn tuổi trẻ và trung niên của ông cho nơi côn nhau cắt rốn nầy, ông đã vào sanh ra tử, trực diện chiến trường, ông phải hãnh diện và khẳng định mình là người cố cựu. Ông có vắng bóng nơi quê mùa thân thương nầy trên dưới hai thập niên. Điều nầy, chỉ là bề nổi. Cái thật là quá trình cách mạng của Ông, mà rốt lại là dựng lên một chánh quyền ăn dân còn hơn thực dân gấp bội. Một chính quyền vĩ đại với một chương trình ăn dân vĩ đại. Thế nên ông già Hai mang một mặc cảm tội lỗi với những người dân hiền lành ở đây, thêm một mặc cảm bất lực, thủ phận lượm rác kiếm sống hơn là bương chải trong lợi danh nhơ bẩn. Khí tiết của ông là tâm trạng của Khuất Nguyên[7], người đục ta trong, người say, ta tỉnh, nên ta không có đường sống..
‘-Vậy
là ông anh đi làm cách mạng. Thật là hiển hách.’
Câu nói nầy của Ông Năm là nhát gươm tối hậu thẳng vào tim ông già mót rác.
Câu nói nầy của Ông Năm là nhát gươm tối hậu thẳng vào tim ông già mót rác.
Bà chủ quán lại phải đở. Các nói, cái ‘ứ
hự’ cuối câu, hình ảnh bà cầm cây quạt đuổi ruồi, hồn nhiên, gần gũi, và đầy
tình người. Sau 1975, quán cóc mọc lên
như nấm. Trên lòng lề đường ở tỉnh thành, quận lỵ, dọc theo các vệ đường ở thôn
quê. Đó là hiện tượng nghèo và đói chạy ra đường, vì nghề nầy—nghề bán quán
cóc—ít vốn, và vốn quay nhanh, chỉ sớm tới chiều là có lời đủ cho gạo muối cơm
chiều và trưa hôm sau.
Bà chủ quán, có lẽ như bao nhiêu người khác, bị cái nghèo
kéo ra đây, nhưng bà như bao nhiêu tâm hồn mộc mạc chân chất của miền quê, đồng
ruộng nầy, bà không nghèo tình thưong, không nghèo sự thông hiểu, bà cảm nhận
những trăn trở, xót xa bên trong của mót rác , vì bà biết cuộc cuộc tình của
gian dở của ọng với đám người lạ không lương tâm ấy. Bà hiểu được cái đau khổ
của một người mà đã có lần giao hồn mình cho quỷ dữ.
Mưa giữ khách. Khách lại vô tâm, một lần nữa, khơi đống tro tàn, ngoáy vào vết thương lòng đang ngủ :
‘-Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ hưu từ lâu rồi ?’
Mưa giữ khách. Khách lại vô tâm, một lần nữa, khơi đống tro tàn, ngoáy vào vết thương lòng đang ngủ :
‘-Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ hưu từ lâu rồi ?’
Ông Năm quá vụng, cứ nghĩ rằng, ai đã đi cách mạng cũng
vổ tay nhất trí với bọn ăn dân, và ăn bẫn. Một
lần nữa bà chủ quán đở cho ông già mót rác, không vì ‘sao vàng’[8]
bỏ đảng, mà vì khí tiết, trả thẻ đảng.
Nhưng tài xế Chi không tha, tiếp tục hơi chữ :
Nhưng tài xế Chi không tha, tiếp tục hơi chữ :
‘Uổng vậy tía. Một
đời đi cầm bảng đỏ[9],
giận một chút rồi bỏ... dảng sao tía ?’
Một lần nữa bà chủ quán phải đở. Bà làm đậm nét cái khí tiết của ông già lượm rác, khi ngộ ra cái giả liêm chánh, giả đạo đức, ‘phủi tay cái xạch’, ‘nghỉ chơi, về nhà làm ruộng.’ Và bà cũng chơi chữ. ‘Coi như bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ chơi chịu.’
Một lần nữa bà chủ quán phải đở. Bà làm đậm nét cái khí tiết của ông già lượm rác, khi ngộ ra cái giả liêm chánh, giả đạo đức, ‘phủi tay cái xạch’, ‘nghỉ chơi, về nhà làm ruộng.’ Và bà cũng chơi chữ. ‘Coi như bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ chơi chịu.’
Cái vụng về ngây thơ của Ông Năm, cái thông minh, lém
lỉnh của tài xế Chi, cái nhạy bén, thông hiểu và lưu loát của bà chủ quán, như
hoà nhịp đuổi bắt nhau, trong một hoà tấu thính phòng, mà chủ đề là chân dung sinh động của ông già mót
rác. Một thân phận, võ chanh bị vứt bỏ,
một thứ rác, bị loại ra khỏi giòng chính, nhưng vẫn cố giữ khí tiết, một chút
gì đó còn lại, để ông còn là chính ông.
Khi cảm nhận rằng trọng tâm của khách—tài xế chi và ông
Năm—giờ đây không còn là tạm chờ vá vỏ xe, mà là chính là con người của ông,
ông cảm thấy đến lúc phải đi..mót rác. Ông xả rác, thì phải sống với rác. Luật
nhân quả ràng ràng.
‘Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái đã? Ông Năm như cảm một mối thương tâm, buồn cho thân phận ông già Hai. Cái ý nghĩ phải giúp đở thoáng qua ông Năm và như một phản ứng tự nhiên, ông Năm lấy $50 đưa cho ông già Hai.
Ông già nghiêm khắc nói:
‘Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái đã? Ông Năm như cảm một mối thương tâm, buồn cho thân phận ông già Hai. Cái ý nghĩ phải giúp đở thoáng qua ông Năm và như một phản ứng tự nhiên, ông Năm lấy $50 đưa cho ông già Hai.
Ông già nghiêm khắc nói:
-
Tui không phải là người ăn xin. Không có
danh nghĩa là kẻ ăn mày nên tui không nhận của bố thí. Xin lỗi.
Thêm một nét nói lên cái tính khí
của ông già.
***
***
Ông già Hai vừa khuất, thì ông chủ quán, nảy giờ im lặng—
nhưng không một chi tiết nào là ông không nghe biết—mới ‘buông tờ báo rời võng,
đến bên ông Năm, cắt nghĩa’ : ‘Đừng ngạc nhiên. Hai Cọp là như vậy. Không bao giờ nhận sự thương xót của ai.’...
Hai Cọp nguyện lượm hết mọi thứ rác của xã hội nầy. Và có thể, gần đây thôi rác
sẽ chôn ông ta.
Thì ra đó là Hai Cọp, người hùng trong hồi ức của Năm
Hùng.
Tóm lại,
‘Ông già trên bãi rác Bót Số 10’ là một bi hài kịch, trên
chủ đề RÁC !, ở một quán cốc bên đường, trong thời gian trên dưới một giờ.
Bi ! vì là thân phận của một người có khí tiết. Có thể, ông ta không có cấp bằng cao, không học rộng, không đọc được sinh ngữ, vì thiếu phương tiện, vì hoàn cảnh, nhưng lòng ông đầy tình người, tình quê hương, tham vọng ông lớn—xây dựng một nước VN giàu mạnh, người người, nhà nhà hạnh phúc, một hạnh phúc giản đơn, cụ thể, ăn, mặc, ở, an ninh là nhu cầu thiết yếu, trên đó con người có thể xây dựng tình thương, mà không là một đổi trao, buôn bán, tính toán thiệt hơn. Nhưng rồi, mộng lớn không thành. Tệ hơn : Ông phải hằng ngày mót rác, sống nhờ ở rác, vì rác, và cũng do rác mà ra.
Bi ! vì là thân phận của một người có khí tiết. Có thể, ông ta không có cấp bằng cao, không học rộng, không đọc được sinh ngữ, vì thiếu phương tiện, vì hoàn cảnh, nhưng lòng ông đầy tình người, tình quê hương, tham vọng ông lớn—xây dựng một nước VN giàu mạnh, người người, nhà nhà hạnh phúc, một hạnh phúc giản đơn, cụ thể, ăn, mặc, ở, an ninh là nhu cầu thiết yếu, trên đó con người có thể xây dựng tình thương, mà không là một đổi trao, buôn bán, tính toán thiệt hơn. Nhưng rồi, mộng lớn không thành. Tệ hơn : Ông phải hằng ngày mót rác, sống nhờ ở rác, vì rác, và cũng do rác mà ra.
Bi ! vì là một mối tỉnh lớn dỡ dang. Mối
tình xã nghĩa ! Mối tình lý tưởng ! Người đẹp xã nghĩa đã phản bội,
và giờ đây, biến thể. Kinh tế thị trường là tự do kinh doanh, tự do tìm lợi
nhuận, trong khuôn khổ luật định và qui luật khách quan của thị trường. Kinh tế
thị trường vô tư, vô tình, và với xã nghĩa như nước với lữa. Thế mà xã nghĩa vẫn sang ngang, gọi đó là
cũng là ‘hướng đi tất yếu của lịch sữ’.
Bi ! vì cả tuổi thanh thiếu niên và trung niên, Ông
hiến dâng cho Đảng của Ông, giờ cách mạng thành công, hai miền qui về một mối,
thì Đảng của Ông trở lại ăn dân có bài bản, có tổ chức, có hệ thống một cách
khoa học. Duy vật biện chứng trở thành duy tâm, lắm khi là duy-quyền-lực và bạo
lực.
Bi ! cũng vì nhìn ngoài, ai cũng nghĩ rằng Ông một
lòng một dạ với ‘cách mạng’, mà không hiểu
Ông ngậm đắng nuốt cay, vì những hành động ‘ăn dân’, ‘bán nước’ của Đảng
của Ông.
Bi ! vì Ông thoát ra khỏi nơi chôn nhao cắt rốn của
Ông. Sống trong giằn xé bên trong, khổ
sở vì những câu hỏi—ngây thơ hay như câm chọc, khuyấy quậy vết thương lòng— của
ông Năm, của tài xế Chi, vì những giải thích, như biện minh của bà chủ quán, mà
thiết nghĩ không cần thiết với ông. Bi cũng chỉ vì những thương đau ấy xảy ra
ngay ở đây, trong cái quán nhỏ hẹp nầy, và cô động trong thời khoảng ngắn ngủi
của lời qua tiếng lại.
Thật tội nghiệp co Ông Hai Cọp.
Thật tội nghiệp co Ông Hai Cọp.
Nhưng cũng thất cười.
Thật sự, đây là một satire, con ong chích và chích sâu vào chế độ, chủ nghĩa và con người xã nghĩa :
Thật sự, đây là một satire, con ong chích và chích sâu vào chế độ, chủ nghĩa và con người xã nghĩa :
‘Chi biết ông khách sẽ không dám rớ tới ly nước đá ở đây;
kể cả nước lọc trong chai đóng nút, nên không mời. Chi biết mọi thứ bày bán tại
những nơi kém sang trọng như vầy mấy Việt kiều mười người như một sẽ không dám
đụng tới. Họ nói đó là nước lọc giả, bia giả, thuốc lá giả. Một số còn nói cả
tánh tình, tâm sự, lời nói của người ta cũng giả. Nghĩ cũng ngộ. Thời nầy ở đây
cái gì mà không giả! Giả từ lâu lắm rồi. Nhớ hồi hai, ba mươi năm trước thằng
bé Chi nghe người lớn nói anh y tá đi bộ đội lâu năm trở thành bác sĩ. Có ông
cán bốn túi từ Bắc vào chễm chệ ngồi vào ghế Viện trưởng cái đại học duy nhứt ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long này; về sau biết ra thì cán ta chỉ xong lớp 7! Còn
bây giờ thì anh công an huyện cũng có bằng phó tiến sĩ. Chị giám đốc thì cái
bằng tiến sĩ coi như bình thường; ai không có mới là điều lạ. Chiều nay có
hoa vàng trước ngõ. Lúc trước người ta ca như vậy. Bây giờ thì chiều nay
tiến sĩ giấy bay đầy trước ngõ! Có nhiều giai thoại nói về các tiến sĩ hàm
đời nầy. Người ta kháu nhau rằng có cô tiến sĩ chủ nhiệm nông trường gốc miền
ngoài trong một bữa tiệc chiêu đãi báo chí, tới món tráng miệng bằng kem, cô
tiến sĩ giám đốc dùng bàn tay bự như cái quạt ba tiêu lia lịa quạt quạt ly
cà-rem đang bốc khói, người bên cạnh thắc mắc hỏi nhỏ, cô giám đốc nói là “nàm
cho cà-lem bớt lóng mà lồng chí ” !!! Đồng rận lúc đó chắc chỉ muốn chui
xuống gầm bàn huống chi là “lồng chí”. Không biết cà-lem xã hội
chủ nghĩa “lóng” hay cái hàm tiến sĩ của cô sắp cháy! Bằng cấp để treo
chơi thì có chết thằng tây nào đâu. Tài xế Chi nghĩ tới đó bỗng
cười.’
Nhưng cười ra nước mắt. Đuổi thằng Tây, để cỏng lấy một thứ Việt Nam dốt nát và tham tàn houn thằng Tây gấp bội. Thằng Tây chỉ cho phép độc quyền một số giới hạn sản phẫm, như rượu, á phiện,..., dưới chiêu bài là để dễ kiểm soát, chế độ ta thì độc quyền tất—tất cả mọi phương tiện sản suất, rồi chia nhau—dưới chiêu bài là tài sản của toàn dân. Sau khi chiếm đoạt nhà cửa, tài sản, tư bản, làm giàu trên xương máu của kẻ khác, bọn cướp ấy lại một lần nữa nhân danh nhân dân, nhân danh giai cấp, phè phởn theo kinh tế thị trường. Để giàu thêm giàu, và nghèo thêm nghèo.
Nhưng cười ra nước mắt. Đuổi thằng Tây, để cỏng lấy một thứ Việt Nam dốt nát và tham tàn houn thằng Tây gấp bội. Thằng Tây chỉ cho phép độc quyền một số giới hạn sản phẫm, như rượu, á phiện,..., dưới chiêu bài là để dễ kiểm soát, chế độ ta thì độc quyền tất—tất cả mọi phương tiện sản suất, rồi chia nhau—dưới chiêu bài là tài sản của toàn dân. Sau khi chiếm đoạt nhà cửa, tài sản, tư bản, làm giàu trên xương máu của kẻ khác, bọn cướp ấy lại một lần nữa nhân danh nhân dân, nhân danh giai cấp, phè phởn theo kinh tế thị trường. Để giàu thêm giàu, và nghèo thêm nghèo.
Thật
không làm sao diễn tả hết cái khả năng khéo léo siêu việt của Trần tiên sinh
trong cái tài dùng chữ, cái cách dùng sáo ngữ. Sáo ngữ là những từ ngữ mà người
ta dùng quá thường, nát đi rồi. Cho nên,
văn nhân mặc khách thường tránh, và tìm những cách diễn tả mới lạ, lắm khi vì
vậy mà câu văn trở nên tối nghĩa. Cách sắp xếp sự việc hay tư tưởng, trước sau, mạc
lạc mà tự nhiên, khuất chiết mà trôi chảy. câu văn vừa phải, có khi rất ngắn,
dễ cho người đọc; nhưng cũng không vì cái dễ đó mà làm xáo trộn âm vận, hay cái luật tự nhiên của ngũ vựng.
Thoạt, người đọc nghĩ rằng đây là câu chuyện của ông Năm, người trở về thăm quê nhà. Nhưng, người đọc sớm thấy câu chuyện là về rác quanh cuộc sống dở khóc dở cười của nhà ‘cáh mạng’ Hai Cọp. Hai Cọp ít môi miếng, luôn như muốn thu mình nhỏ lại, trốn đời, nhưng bà chủ quán, vì mến một tánh tình, thương một khí tiết mà không buông tha. Bà cố cho khách hiểu Hai Cọp là một con người khí phách có và cón thừa, ‘trả thẻ đảng’, ‘phủi tay cái xạch, nghỉ chơi.’
Kịch tính được giữ luôn ở một mức độ thậc cao vì tất cả sự việc được xảy ra trong mộ thời gian ngắn ở Ngã Ba Lộ Tẻ, gần cái Răng, ở trong và quanh cái quán nhỏ đó.
Thoạt, người đọc nghĩ rằng đây là câu chuyện của ông Năm, người trở về thăm quê nhà. Nhưng, người đọc sớm thấy câu chuyện là về rác quanh cuộc sống dở khóc dở cười của nhà ‘cáh mạng’ Hai Cọp. Hai Cọp ít môi miếng, luôn như muốn thu mình nhỏ lại, trốn đời, nhưng bà chủ quán, vì mến một tánh tình, thương một khí tiết mà không buông tha. Bà cố cho khách hiểu Hai Cọp là một con người khí phách có và cón thừa, ‘trả thẻ đảng’, ‘phủi tay cái xạch, nghỉ chơi.’
Kịch tính được giữ luôn ở một mức độ thậc cao vì tất cả sự việc được xảy ra trong mộ thời gian ngắn ở Ngã Ba Lộ Tẻ, gần cái Răng, ở trong và quanh cái quán nhỏ đó.
Nhưng
tôi đã quá nhiều lời. Giờ xin mời đọc
giả vào đọc Trần Bang Thạch trong câu chuyện ngắn Ông Già trên Bãi Rác Sót số
10.
[2] Archimèdes “Eureka!”
[3] Nguyên bản:
cái ngày ông cột đèn biết vượt biên
[4] Nguyên bản là: quả. Tôi tự sửa cho cân với tọa lạc
[5] Tiền trừ niên thiếu hậu trừ lão, duy hữu trung gian tam thập niên.
Trước trừ niên thiếu, sau bỏ tuổi già, tính lại đời người chỉ có 30 năm sinh
động.
[6] Thực dân
[7] Nhân vật thời Chiến Quốc, thế kỷ thứ 3-thứ 4 trước Công Nguyên.
Nguồn: Wikipedia Việt Nam
[8] Sang giàu
[9] bảng đỏ, nói lái lại là bỏ đảng, một các chơi chữ và chơi xỏ của
tài xế Chi.
No comments:
Post a Comment