_____________________________________
SƯU TẦM MÃ QUỐC THÁI
Gom góp từ ngữ miền Nam và Sài Gòn xưa
Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Sài Gòn/Miền Nam hay dùng, như: Mèn ơi, Nghen, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,…, và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm… Xin nhờ bạn đọc comment thêm những từ nào còn nhớ để có thể góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Sài Gòn và miền Nam trước đây, e rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một…
Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Sài Gòn, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Và bài hát “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cô gái chạy xe chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng theo sau năn nỉ làm quen, không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghe. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo ke” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các chúng đã từng nghe trên các video chương trình Ca nhạc, kể chuyện,… Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Sài Gòn miền Nam, nếu dùng google dịch thì câu “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua), google nó dịch ra như vầy: “through through through through this gaping expression too”. Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà… Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng beng (từ bèng beng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết… Ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén” , ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh. Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể. Thí dụ: Khi nghe ai nói chuyện lặp đi lặp lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn: “Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa em về!”. Người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghe ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi Diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt. Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dzậy?”. Cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): “Xí! Hổng chịu đâu”, ”Xí! Cha già dịch nè!”, ”Sức mấy!”, “Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “Cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghe rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghen. Nhưng đến khi nghe câu: ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghen!” thì coi chừng… liệu hồn đó. Thật ra không phải người Sài Gòn ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình dân mới dám xài từ như “Mả cha, Tổ mẹ” để kèm theo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được ba má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa. Ra đường nghe mấy đứa con nít nói “DM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghe Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghen!” Chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền: “Chỗ người lớn nói chuyện không được chen vô nhớ chưa?” Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Sài Gòn dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Game Show chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ”, “Các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghe thấy nó lạ lạ làm sao đâu á… Tò te tí te chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Sài Gòn một trời thương nhớ! Trân trọng, Tác giả Nguyễn Cao Trường Nguồn
nhacxua.vn.
A-ma-tưa(ơ) =
hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp amateur) À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh
dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha) Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ
chừng = dự đoán (từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu
chiều nay nó dìa tới đó bây) Anh em cột chèo Áo ca-rô = áo kẻ ô (bắc) Áo
thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc) gốc Pháp maillot Áp-phe =
trúng mánh, vô mánh (chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền!) gốc tiếng Pháp
affaires Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả (billard: để hết áp-phê bên trái chúi
đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà) Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng Ăn cộc đi con = ăn nhiều dô (Gò Công) Ăn hàng =
ăn uống, đi ăn cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăn cơm trưa-chiều. (Thường
chỉ có con gái mới dám đi ăn hàng, hồi xưa con trai không dám đi ăn hàng vì bị
chọc thì mắc cở lắm, thêm nữa, gia đình giáo dục con trai khác với con gái,
thường Ông Bà Bô hay nói: “con trai phải ra con trai nghen, ai đời con trai mà
ăn hàng như con gái”. Con gái mà đi ăn hàng nhiều cũng bị la rầy. (sau này mấy
tay trộm cướp cũng xài từ “ăn hàng”, tức là đi giựt dọc, cướp bóc từ sau 1975)
Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá
phách) Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn) Bá chấy, bá phát =
quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó! Là ngon quá trời đất luôn! Ba ke, Ba
xạo = xạo – sau này (1975) có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía (đừng
có đía = đừng có nói xạo) Ba lăm = 35 = già dê (dê 35) Ba lơn = tính
hay đùa cợt, chòng ghẹo người khác nhưng không gây hại, hoặc có chủ đích hại
người Bá Láp Bá Xàm = Tầm xàm – Bá láp Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi
bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa) Ba Tăng = Bảo kê gốc Pháp
patente Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc
chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường Bành ki = bự Banh
ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe) Bảnh tỏn, Sáu
bảnh = đẹp ra dáng (mặt đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha) Banh xà lỏn Bạt
mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng) Băng = nhà
băng, ngân hàng gốc Pháp (banque) Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi Bắt
kế: là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa. Bặm
trợn = trông dữ tợn, dữ dằn Bất thình lình = đột ngột, Bất tử Bầy
hầy = bê bối, ở dơ Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe
để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa) Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan Bề
hội đồng = hiếp dâm tập thể Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con
bên bển đó!) Bí lù = không biết đường trả lời, không biết Bí xị =
buồn Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy Biết sao hôn! Biệt tung biệt
tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu
Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo,
nhưng câu “ai biểu” thì lại có hàm ý người kia: “tự làm thì tự chịu” Bình
thủy = phích nước Bình-dân = bình thường Bít bùng Bo bo xì =
nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con
nít) Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi
người đó nhỏ vai vế hơn mình) Bỏ thí = bỏ Bồ = gọi bạn thân thiết (Ê
chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen) Bồ đá = bị bạn gái bỏ
Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay
(nay) Buồn xo, buồn hiu = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? )
Buột = cột Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về / bữa giờ đi
đâu mà hổng thấy qua chơi?) Cà chớn cà cháo = không ra gì Cà chớn chống
xâm lăng. Cù lần ra khói lửa. (một câu nói trong thời chiến) Cà giựt =
lăng xăng, lộn xộn Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện Cà lăm =
nói lắp Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu Cà nghinh cà ngang =
nghênh ngang Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhõng tối
ngày), có khi gọi là nhõng nhõng Cà lơ phất phơ Cà rem = kem Cà rề, Cà rịt
cà tang = chậm chạp Cà rịch cà tàng Cà rởn = giởn chơi cho vui, ngoài
ra cũng có nghĩa như ba lơn Cà tàng = bình thường, quê mùa,…. Cà tong cà
teo = ốm, gầy yếu Cà tưng cà tửng Cái thằng trời đánh thánh đâm Càm
ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây Cạn tàu ráo máng; ăn cháo đá
bát = vô ơn Càng quấy = phá phách hư hỏng Cạo đầu khô Cảo = kéo,
rít (cảo điếu thuốc gần tới đót) Cảo Dược= làm cho thẳng Có chi hông? = có
chuyện gì không? Coi = thử; liền vd: Nói nghe coi? Làm coi Coi bộ ngon ăn,
ngon ăn đó nghen = chuyện dễ ăn (không liên quan tới ngon dỡ – chuyện này
làm coi bộ ngon ăn đó nghen!) Coi được hông? Còn ai trồng khoai đất này =
chính là tôi, “tôi đây chớ ai” Còn khuya = còn lâu (uh! mày ngon nhào vô
kiếm ăn, còn khuya tao mới sợ mày!) Con ở = người ở, (nay Oshin từ tựa đề
bộ phim của Nhật) Cô hồn, các đảng Công tử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh
yếu đuối- Xem thêm Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề
mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh… (thằng này cù lần
quá!) Cua gái = tán gái Cụng = chạm Cuốc = chạy xe (tui mới làm
một cuốc từ Hocmon dzia Sài Gòn cũng được trăm hai bỏ túi!) Cưng = cách
gọi trìu mến (“Cưng” dân Trảng bàng nè! Trên cưng ”dẫn” ”sài” ”dậy” hà) Cứng
đầu cứng cổ Chả = Cha đó Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự
Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi!” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt
tích dzậy ông?) Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi (Con gái con đứa gì
mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi!) Cháy túi = hết tiền
Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về (thôi tụi bây ở chơi tao
chạy (dọt) trước à!) Chẩu: 走 nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông Chạy te te = chạy
một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te
ra đằng sau trốn mất tiêu rồi Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức –
cũng có nghĩa là chơi thoải mái – “mày cứ chơi “tẹt ga” (mát trời ông địa) đi,
đừng có sợ gì hết, có gì tao lo” (ga = tay ga của xe) Chạy u đi Chạy vắt giò
lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chạy không kịp thở Chằn ăn trăn
quấn = dữ dằn Chăm bẳm = tập trung (dòm cái gì mà dòm chi chăm bẳm
vậy?) Chậm lụt = chậm chạp, khờ Chận họng = không cho người khác nói
hết lời Chém vè (dè)= trốn trốn cuộc hẹn trước Chén = bát Chèn đét ơi, mèn
đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên Chèo queo = một mình (làm gì
buồn nằm chèo queo một mình dậy? ) Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? =
một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không Chì = giỏi
(anh ấy học “chì” lắm đó). Chiên = rán Chình ình, chần dần = ngay
trước mặt (Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước
mặt) Chịu = thích, ưa, đồng ý (Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không
tao gả luôn) Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác Chói lọi =
chói sáng Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè) Chỗ
làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác Chột dạ = nghe ai nói
trúng cái gì mình muốn dấu Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt Chùm
hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm
đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy?) Chưn = chân
Chưng hững = ngạc nhiên Chưng ra = trưng bày Dạ, Ừa (ừa / ừ chỉ dùng
khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ Dạo này = thường / nhiều ngày
trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! / thường) Dấm da dấm dẵng Dân
chơi cầu ba cẳng = dân giang hồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa
(nhìn mày giống dân chơi cầu ba cẳng quá) Dây, không có dây dzô nó nghe
chưa = không được dính dáng đến người đó Dè chừng = coi chừng (Tui lỡ
nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn) Dễ tào =
dễ sợ Dì ghẻ = mẹ kế Dị hợm = quái dị, không giống ai – Dĩa =
Đĩa Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không
chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng) Diễu dỡ =? Dọt lẹ Dô diên (vô
duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’
chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi) Dù = Ô Du ngoạn =
tham quan Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít
đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”) Dùng
dằng = ương bướng Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có
nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy
theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu
ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe
nặng hơn ) Dữ đa thường dùng cuối câu ” cái này coi bộ khó kiếm dữ đa” Dzìa,
dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy
ngữ điệu lên xuống người nói) Dừa dừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá Đá cá
lăn dưa = lưu manh Đa đi hia = đi chỗ khác. Đã nha! = Sướng nha!
Đài phát thanh = đài tiếng nói Đánh dây thép = gữi điện tín
Đàng = đường (Đi một đàng học một sàn khôn) Đánh đàn đánh đọ = Đánh
đàn (học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông) một cách để chê việc
đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau. Đánh tù xầm, Quảnh tù
xì = oẳn tù tì (trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao) gốc từ tiếng Anh: one
two three Đâm ra = thành ra Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài tử
cải lương = nam Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?) Đầu đường
xó chợ Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen Đẹp trai
con bà Hai = đẹp Đế = chen thêm (đang nói nó đế vô một câu chận họng
làm tui câm luôn) Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới
về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9 Đi bang bang =
đi nghênh ngang Đi bụi Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí Đi mần = đi
làm Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà) Đồ
già dịch = chê người mất nết tùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ
có hàm ý khác Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông
nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo Đờn = đàn Đùm
xe = Mai-ơ Đực rựa = đàn ông, con trai Đừng có mơ, đừng có hòng Được
hem (hôn/hơm)? = được không? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm Gác
dan = bảo vệ, người gác cổng (gốc Pháp: gardien) Gần xịt = thiệt là
gần Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê Ghét = tùy cách nhấn giọng và kéo dài
thì …. ghét chưa chắc đã ghét mà chỉ là câu nói thể hiện thương, hay chấp nhận
nữa hổng chừng. Ngó nó mà thấy ghét ghê ê ê ê! (ghét thương) chớ hồng phải NHÌN
(giọng Bắc) thấy ghét. Dòm cái bản mặt nó mà phát ghét (ghét thiệt) Ghê =
rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc
chê Ghệ linh = em đẹp Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích Già
dịch = Già dê Già háp = già khằn, già cú đế Giục giặc, hục hặc =
đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc) Ghi-đông,
Bọt-ba-ga (guidon, porte-bagages) Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp Hay
như = hoặc là Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ
hôi ướt nhẹp) Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông) Hậu đậu = làm việc gì
cũng không tới nơi tới chốn Héo queo = xụi lơ, bi xị Hết = chưa, hoặc
chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết) Hết trơn hết trọi = chẳng,
không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng
dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á!) Hôi mợi= thôi mày ơi Hồi nảo hồi
nào = xưa ơi là xưa Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng hổm
bữa = hôm trước Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay Hổng có
chi! = không sao đâu Hổng chịu đâu Hổng thích à nhen! Hổng xi nhê =
không ăn thua, không có ý nghĩa gì hết , (Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì)
gốc Pháp signifier Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột
vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài Hờm = chờ sẵn ( tui hờm
sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo
luôn) Hợp gu = cùng sở thích (goût) Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ
hãi (nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin) Hú hồn hú vía Kẻo = coi chừng
(Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe) Kể
cho nghe nè! = nói cho nghe Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn
tiếng, kêu um trời,… xem thêm bài kêu đò Thủ Thiêm Kêu giựt ngược = kêu
gấp bắt buột người khác phải làm theo ý mình (kêu cái gì mà kêu như giựt ngược
người ta hà!) Kinh thiên động địa Khán thính giả (người xem kịch, cải lương,
truyền hình,…) trong đó Khán (看): xem – Thính (聽): nghe, giả (者 ) = người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu
ngắn gọn là khán giả: chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi Khính = ké –
mặc đồ khính, đi ăn khính,… Khỉ đột Khỉ gió Khỉ khô Khó ưa = chê nhưng có
lúc lại là khen. (Mặt thằng nhỏ khó ưa quá hà!) Khoái tỉ = thích gần chết
Không thèm = không cần (Làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ
qua nhữ lại trước mặt tui?) Lâu lắc= chậm trễ, trễ nãi hàm ý trách móc (Kêu
hoài sao ko mở cửa, làm gì trong trỏng mà lâu lắc vậy?) Lai căng = không
nguyên bản Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm Làm (mần) dzậy coi được
hông? Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không
thích/thích tùy theo ngữ cảnh Làm gì mà toành hoanh hết zậy Làm mướn = làm
thuê Làm nư = lì lợm, làm cho lợi gan Làm um lên = làm lớn chuyện Lán
cón = bảnh bao (có thể do hồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh
giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này) Lanh chanh Lạnh xương
sống Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
Láo-háo = khoảng chừng (tuổi nó láo háo cở tuổi tao chứ mấy) Lao-tổn (cách
dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa) Lặc lìa = muốn rớt ra,
rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu Lặc lìa lặc lọi = ? Lắm à
nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen) Lăn cù
mèo = lăn long lóc, té ngữa Lắc lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng
lại Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích
Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào) Lần mò = tìm
kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy
bây?) Lấy le = khoe đồ Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai (đi lẹt đẹt!
Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy) Leo cây; leo cây me = thất
hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi.
Lèo = thất hẹn – hứa lèo Lề mề Lên bờ xuống ruộng Lên hơi, lấy hơi lên =
bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha! Liệu =
tính toán (thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó
nhen!) Liệu hồn = coi chừng Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái
Lóng rày = hổm rày (thời gian gần đây) Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu
(gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
Lộn = nhầm (nói lộn nói lại) Lộn xộn = làm rối Lục cá nguyệt: sáu
tháng. Ví dụ: Nộp báo cáo sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt. Lục đục =
không hòa thuận (gia đình nó lục đục quài), đôi khi lại có nghĩa khác (Làm gì
lục đục ở sau bếp hoài vậy bây?) Lụi hụi = (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi
nè!) Lùm xùm = rối rắm, Lung tung xà beng Lừng mặt = quen quá không
còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen) Lười chẩy thây; đại
lãn; liệt = làm biếng Má = Mẹ Mả = Mồ Ma lanh, Ma le gốc Pháp
(malin) Mã tà = cảnh sát Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
Mari sến = sến cải lương Mạnh giỏi = mạnh khỏe Mát trời ông địa, tẹt
ga = thoải mái Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ Mắc cười = buồn
cười Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt. Nhưng
cũng có nghĩa nói ngầm là đồng ý nữa, thí dụ: “Giữ đi, mắc dịch không hà trả
lại tui mần chi?” Mắc địt = dỡ ẹt; một cách chê cái gì đó dỡ Mặt chù ụ một
đống, mặt chầm dầm Mần ăn = làm ăn Mần chi = làm gì Mậy = mày (
thôi nghen mậy = đừng làm nữa) Mé = phía (nhà ổng ở xích mé bên kia kìa)
Mé = tỉa nhánh Mè nheo = Mèo nheo Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng
(cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba
rầy) Mét = mách Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt
Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4,
5…. 10. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) gốc K’mer Mò mẫm rờ
rẫm sờ sẩm (hài) = mò Mở bum, mở ban: Mở party nhấy đầm Mợi = mày ơi
Mồ tổ! = câu cảm thán Một lèo, một hơi = một mạch Muỗng = Thìa,
Môi Mút mùa lệ thủy = mất tiêu Mút chỉ cà tha Mừng húm Mưa thúi đất (nam
bộ) xem thêm tháng mười “mưa thúi đất” để rõ hơn Nam Tàu Bắc Đẩu Nào
giờ = từ trước tới nay Năn nỉ ỉ ôi Niềng xe = vành xe Nói nghe nè!
Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm Nổ banh xác = nói láo Nổ dữ dội= quăng lựu
đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạn” vô chợ khủng bố dân lành) Nổi cơn tam
bành = giận dữ Nước lên, nước xuống, nước rồng (thủy triều) Nước
phun-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine Ngang Tàng =
bất cần đời Nghen, hén, hen, nhen Nghía = ngắm Ngó = Nhìn, dòm Ngó
lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó Ngoại quốc = nước
ngoài Ngõ đường = ngã đường (ngõ ba ngõ tư) Ngon bà cố = thiệt là
ngon Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén) Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân
….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay
vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp) Ngủ nghê Ngựa đực,
Ngựa cái = xãnh xẹ Người Thượng = người dân tộc miền núi Nhá qua nhá
lại Nhà đèn = công ty điện lực Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép
Nhà thuốc GÁC = nhà thuốc Tây bán 24/24 Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều
đằng trước mặt Nhào vô kiếm ăn, ngon vô đây = thách đố ( dám chơi hông,
ngon vô đây!) Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc
chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia (Nói gì thì nói giờ nhậu cái đã)
Nhí nhảnh Nhiều chiện = nhiều chuyện Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê
nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau Nhóc,
đầy nhóc = nhiều Nhột = buồn Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại
cái gì đó trước mặt ai (tương tự “nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui” nhưng cấp
độ mạnh hơn) Nhựt = Nhật Òm = dễ òm, dị òm,… Oải chè đậu; quải chè
đậu Ông bà bô = ba má (thường những người có học vấn thì dùng từ này để
nói chuyện với bạn về ba má mình) Ông bà ông giải = Ông bà ông vãi (bắc)
Ồng Cò = cảnh sát Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng
nói (ông ấy nói) Pê Băm-Tám: đồ khui bia, khui nghe cái Bốp giống nổ súng P-38
Phi cơ, máy bay = tàu bay Phờ râu = mệt Qua bên bển, vô trong trõng,
đi ra ngoải, Quá cỡ thợ mộc…= làm quá, Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó
lại gần mình Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! ) Quá xá quà
xa = quá nhiều, quá đã Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường Quăng
lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng “lựu đạn” vô chợ khủng bố dân lành)
Quần què = (từ tục) chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ
Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa
khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!) Quê một cục Quê xệ Quề trớt = huề
vốn, cũng như không Quởn = rảnh rỗi Quới nhơn = Quý nhân =/= Cô hồn
các đảng (Quới nhơn= Quý nhơn, quý nhân, người tốt đến giúp đỡ) Ra giường
(drap) = vải trãi giường (tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ
xài từ chăn, ga , gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăn trải
giường, khăn chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trãi
giường được) Ra giêng = qua năm mới, qua tết Rành = thành thạo, thông
thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui rành nó tới “sáu câu vọng cổ”.
Ráo = hết Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ
hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới) Rân
trời = Rần trời, um sùm Rầu thúi ruột = Sầu thê thảm Riết = liên
tục, hoài – Mần riết = làm hoài Ro ro = nhuần nhuyễn, (mới tập chạy xe
honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro) Rốp rẽng (miền Tây) = làm
nhanh chóng Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả Rũng
rỉnh = có tiền trong túi Ruột xe = xăm Rượt = chạy đuổi theo Sai
bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai! Sai đứt đuôi con nòng nọc =
như Sai bét bèng beng Sạp = quầy hàng Sáu Bảnh Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy
đứa nhỏ Sến = cải lương màu mè (mặt đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến
lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương. Sến hồi xưa là người làm giúp
việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong
nhà. Sên xe = xích gốc pháp chain Sếp phơ = Tài xế Sợ teo bu gi : (sợ
gần chết) Sống lây lất qua ngày Sụm bà chè = mệt mõi, đi hết nổi Sức mấy =
Sức mấy mà buồn = đâu buồn gì Sườn xe = khung xe Tả Pín Lù: Hầm bà
lằng (gốc Quảng Đông) Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ Tài lanh Tài
khôn Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi Tàng tàng = bình dân Tào lao, tào
lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá láp =
vớ vẫn Tạt qua = ghé qua Tàu hủ = đậu phụ Tầm ruồng Tầm xàm bá láp
Tần ngần = do dự (tẩn ngẩn tần ngần) Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba
muốn gỏ cửa mà khổng dám. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi Té (gốc từ
miền Trung)= Ngã (ngã cái ịc -chú thích anh Tuấn Khải – Mắt chú tững nó xụp thần
dì mới chịu ngã cái ịc xuống gối ngủ hết biết đầu đít chỗ nào) Tèn ten tén
ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư Teo bu-gi = Sợ gần chết (bugi
gốc Pháp bougie) Tía, Ba = Cha Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …!
Tó = lấy, bắt Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí
te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu” Tòn teng = đong đưa, đu đưa Tổ
cha, thằng chết bầm Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi (thường chỉ có người lớn
tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăn
cơm nhen”) Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ
tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản) Tới chỉ = cuối (Hôm
nay chơi tới chỉ luôn!) Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính Tui
ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi (trong đó tui = tôi)
Tui, qua = tôi Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay
chơi trò gì đó Tử tế = tốt bụng Tức cành hông = tức dữ lắm Tháng mười
mưa thúi đất Thảy = quăng Thắng = phanh Thằng cha mày, ông nội cha
mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài
âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ Thâm căn cố đế =
người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc Thậm thụt Thân chủ = người
khách quen thường xuyên Thầy chạy Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một
câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói Thấy gớm = thấy ghê,
tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà
gớm” âm mà bị câm) Thấy gớm = thấy ớn Thèo lẽo = mách lẽo (Con nhỏ đó
chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó!) Thềm ba, hàng ba Thêm thắc
Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ (thôi thí cho nó đi!) – xưa SG có
nhà thương thí: bệnh nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm ý xấu
như bây giờ Thí cô hồn Thí dụ = ví dụ Thiếu Tá lỗ: Thượng Sĩ, vì cái lon
Thượng Sĩ giống Thiếu Tá nhưng có cái lỗ tròn Thiệt hôn? = thật không?
Thiệt tình = cảm thán (thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té
nằm một đống) Thính giả (người nghe radio, đài) Thọc cù lét, chọc cù lét =
làm cho ai đó bị nhột Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
Thôi hén! Thơm = dứa, khóm Thúi = hôi thối, Thủng thẳng, Thủng
thỉnh = từ từ Thủy cục = công ty cấp nước Thưa rĩnh thưa rãng =
lưa thưa lác đác Thước = 1 mét (Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái
áo dài cho sấp nhỏ) Thưởng Lãm Thưởng Ngoạn Trà = Chè Trả treo Trăm phần
trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly
là 100%) Trật chìa, trật đường rầy= sai giờ giấc (Hẹn cho đã rồi không ra làm trật
chìa hết trơn hết trọi) Trẹo Bảng họng, lẹo lưỡi = khó phát âm (nói muốn
trẹo bảng họng) Trển = trên ấy (lên trên Sài Gòn mua đi , ở trển có bán đồ
nhiều lắm) Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng Tròm trèm = cũng cở, gần
tới (tròm trèm 70 tuổi rồi) Trời thần đất lở Trời ui ui = trời hơi tối tối
Trụi lũi = nhẵn thín ( cạo râu trụi lũi) Trừ phi = Trực thăng =
máy bay lên thẳng Tụi mình = chúng mình Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ Um
xùm Ứa gan = chướng mắt Ưng = đồng ý, thích, chịu, … (Ưng ý) Ướt chèm
nhẹp Ướt như chuột lội (miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột) Ván
ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văng, có ba tấm gỗ dày đặt
lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa Vầy = như vậy (làm vầy nè = làm như vậy nè)
Vè xe = chắn bùn xe Vỏ xe = lốp Xa lắc xa lơ: xa thiệt xa Xả láng
sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết Xà ích ( Sãis) có nghĩa là
Thằng đánh xe, (1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi) Xà lỏn, quần
cụt = quần đùi Xà quần gốc K’mer Xài = dùng, sử dụng Xảnh xẹ, Xí xọn
= xảnh xẹ = làm điệu Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng
để chở hàng, không chở người. Xem thêm: xe cá Xe ba gác = xe ba bánh dùng
để chở đồ , xe ba gác máy ( như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp) Xe
cam nhông = xe tải Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng
tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh) Xe Honda = xe
gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn
máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?) Xe hơi = Ô tô con Xe nhà
binh = xe quân đội Xe ôm Xe thổ mộ Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng (
Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết) Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào
một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp
xẹt xẹt nhanh) Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh Xí = hổng dám
đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo) Xi-cà-que: đi cà nhắc Xi nhan =
ra hiệu (gốc từ tiếng Pháp signal) Xì-tin= style Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì
xầm= nói to nhỏ Xí xọn Xí cái bùm bum Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện
tui hoài nghen!) Xĩa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng
đủ xĩa răng nữa) Xĩa xói = châm chọt Xiết = Làm hết xiết (làm không
nổi) Nhưng Ở một số vùng tây nam bộ (Cà Mau) cũng có nghĩa là : Nhanh- Ví dụ ;
Làm xiết xiết = Làm nhanh nhanh , Chạy xiết đi = Chạy nhanh đi. Xiên lá cành
xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình (gốc
từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải) Xỏ lá ba
que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen
vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy” Xỏ xiên =
đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên) Xú chiên = áo lót nữ
– gốc tiếng Pháp (soutien-gorge) Xì líp = quần lót Xụi lơ Xưa như trái
đất, hồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xua thiệt là xưa Xưa
rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa TCS) Y
chang, Y đúc, Y khuông, y bon = giống nhau
MỘT BÀI THƠ, CHỤC CÁCH ĐỌC
Tiếng
Việt của chúng ta thật tuyệt vời ! Bài Cảnh xuân của tác giả Nguyễn Vân Thiên
(Thiện Mỹ Giang) viết năm 1972-1973 khi đang học Trung học tại Đà Nẵng. Được
sáng tác theo thể "Thuận nghịch độc" tức là có thể được đọc bằng 2
cách xuôi, ngược đều có nghĩa.
Bài
thơ được chia sẻ từ nhà nghiên cứu Dân tộc học và Việt học Đinh Trọng Hiếu ở
Paris đăng trên "Khuôn Mặt Văn Nghệ".
Đáng
tiếc khi các trang mạng lưu truyền là lại ghi khuyết danh, từ đó mà bàu thơ bị
đồn là do Hàn Mạc Tử viết.
Khi
đọc bài thơ này ta vô cùng khâm phục tác giả của bài thơ, càng thêm yêu quý và
càng phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt.
Bây
giờ ta hãy chiêm ngưỡng vẻ độc đáo của bài thơ này :
1.
Bài thơ gốc:
Ta
mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú
vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa
cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá
quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua
lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược
xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa
ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha
thướt bóng ai mắt mỉm cười.
2.
Đọc ngược bài gốc từ dưới lên :
Cười
mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng
trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người
đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng
lặng sông chờ khách lại qua
Tươi
thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc
xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi
đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời
sáng ánh xuân cảnh mến ta.
THÊM
CÁCH ĐỌC DO ĐỘC GIẢ TÌM RA
1.
Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
(Sẽ
có một bài ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Cảnh
xuân ánh sáng ngời
Thơ
rượu chén đầy vơi
Giậu
trúc cành xanh biếc
Hương
xuân sắc thắm tươi
Khách
chờ sông lặng sóng
Thuyền
đợi bến đông người
Tiếng
hát đàn trầm bổng
Bóng
ai mắt mỉm cười.
2.
Bỏ 2 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta sẽ được bài (ngũ
ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Mắt
ai bóng thướt tha
Đàn
hát tiếng ngân xa
Bến
đợi thuyền xuôi ngược
Sông
chờ khách lại qua
Sắc
xuân hương quyện lá
Cành
trúc giậu cài hoa
Chén
rượu thơ vui thú
Ánh
xuân cảnh mến ta.
3.
Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc:
Ta
mến cảnh xuân
Thú
vui thơ rượu
Hoa
cài giậu trúc
Lá
quyện hương xuân
Qua
lại khách chờ
Ngược
xuôi thuyền đợi
Xa
ngân tiếng hát
Tha
thướt bóng ai.
4.
Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta đọc ngược từ dưới lên:
Cười
mỉm mắt ai
Bổng
trầm đàn hát
Người
đông bến đợi
Sóng
lặng sông chờ
Tươi
thắm sắc xuân
Biếc
xanh cành trúc
Vơi
đầy chén rượu
Ngời
sáng ánh xuân.
5.
Bỏ 4 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc:
Ánh
sáng ngời
Chén
đầy vơi
Cành
xanh biếc
Sắc
thắm tươi
Sông
lặng sóng
Bến
đông người
Đàn
trầm bổng
Mắt
mỉm cười.
6.
Bỏ 4 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, ngược từ dưới lên:
Bóng
thướt tha
Tiếng
ngân xa
Thuyền
xuôi ngược
Khách
lại qua
Hương
quyện lá
Giậu
cài hoa
Thơ
vui thú
Cảnh
mến ta .
Nguyễn Vân Thiên
PHÁT ÂM CỦA NGƯỜI NAM KỲ…
Có
những phương ngữ rất đặc trưng của vùng. Nếu bạn hỏi người Long An: “Năm nay
lúa má sao anh?” Long An trả lời: “Hằng hà!” Còn người Vĩnh Long sẽ trả lời:
“Nhóc luôn!”
Dân
Nam Kỳ cũng lãng mạn lắm, gọi nước lên xuống ngày 2 lần bằng mấy chục từ diễn
tả, như: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước đứng, nước nhửn, nước
ương, nước đổ, nước ngập, nước nổi, nước quay, nước lụt, nước giựt, nước rút,
nước chảy, nước trôi, nước nhảy, nước bò…
"Khúc
sông bên lở bên bồi
Bên
lở lở mãi, bên bồi bồi thêm."
Nước
ròng còn chia ra: nước ròng cạn, nước ròng sát, nước ròng rặc, nước ròng kiệt;
hay còn gọi tắt là nước cạn, nước sát, nước rặc, nước kiệt…
Thời
điểm nước đứng gọi là “nước nhửn”.
"Nước
lớn rồi lại nước ròng,
Đố
ai bắt được con còng trong hang."
Dân
Bắc Kỳ, Trung Kỳ gọi thuyền hay đò thì ở Nam Kỳ gọi ghe và chia ra hàng chục
loại: ghe chài, ghe đục, ghe be, ghe bầu, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe lồng,
ghe lườn, ghe ngo, ghe tam bản…
"Ghe
bầu trở lái về đông
Làm
thân con gái theo chồng nuôi con."
Người
Nam Kỳ viết không sai chánh tả nhưng trong văn nói có nhiều đặc trưng của vùng,
gọi là phát âm sai nếu theo lý thuyết chữ quốc ngữ.
Phát
âm phụ âm cuối không phân biệt “n” và “ng”, “c” và “t”,””y”và “I”. Ví dụ: cục
than thành cục thang, liên thành liêng, lan thành lang, mái và máy, lụt và lục,
mát và mác, thước và thướt...
Phát
âm “ê” thành “i”. Chẳng hạn cơm nếp, cái đệm thành cơm níp, cái địm. “ươ” thành
“ơ”; trái mướp thành trái mớp, ăn cướp thành ăn cớp, đám cưới thành đám cứi,
tức cười thành tức cừi.
Phụ
âm “r” “g”, như rau răm thành gau găm, cá rô thành cá gô.
Phụ
âm “r” thành “d”. Ví dụ: rau răm thành dao dăm, cá rô thành cá dô.
Vùng
Gò Công cũ (Chợ Gạo, Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công [tỉnh Tiền
Giang], và Cần Đước, Cần Giuộc [tỉnh Long An]), ở trong quê sâu có cách phát âm
“ng” thành “qu”. Ví dụ: ông ngoại thành ông quại.
Thành
ra nói kêu " ông quại" cho toàn Nam Kỳ là không trúng.
Bình
Dương, Bình Phước, Tây Ninh có cách phát âm “th” thành “kh”. Ví dụ: cái thùng
thành cái khùng.
Dân
Bến Tre (trừ Chợ Lách và Bình Đại) đọc phụ âm “tr” thành “t”.
Ví
dụ: cây tre, cây trúc thành cây te, cây túc; Bến Tre thành Bến Te; Ba Tri thành
Ba Ti; Giồng Trôm thành Giồng Tôm.
"Chợ
Ba Ti thiếu gì cá biển
Anh
thương nàng anh nguyện về đây."
NGUYỄN
GIA VIỆT
No comments:
Post a Comment