Saturday, July 5, 2025

Kiên Giang - Anh Hùng Nguyễn Trung Trực

 


  Nguyễn Ngọc Hoàng 


Di ảnh anh hùng Nguyễn Trung Trực (*)
"Thắng phụ nhung trường bất túc luân
Đồi ba để trụ ức ngư dân
Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạch Kiên Giang khấp quỷ thần
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
Lưỡng toàn vô uý báo quân thân
Anh hùng cường hĩnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân."
        (Điếu Nguyễn Trung Trực - Huỳnh Mẫn Đạt)


Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 3/1883) là một trong những cây bút đối kháng ở Nam Bộ trong thời kỳ đầu kháng Pháp của dân tộc Việt. Ông người làng Tân Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh (Diên Hương trong Thành ngữ điển tích (NXB Đồng Tháp, 1992), cho rằng ông là người Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang), đỗ cử nhân khoa Tân Mão (1831) khi 24 tuổi, ra làm quan dưới triều Tự Đức, lần lượt giữ các chức Án sát Định Tường, Tuần phủ Hà Tiên, Tuần phủ Châu Đốc... (*)
"Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạch Kiên Giang khấp quỷ thần"
Nguyễn Trung Trực có tên là Nguyễn Văn Lịch, còn gọi là Quản Lịch, Quản Chơn. Ông sinh năm 1838, gia đình sống bằng nghề chài lưới ở Xóm Nghề, ven sông Bến Lức (Long An). Nguyên quán của Nguyễn Trung Trực ở Xóm Lưới, xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát (Bình Định). Nội tổ của Nguyễn Trung Trực là ông Nguyễn Văn Đạo - một ngư dân ở huyện Phù Cát, phủ Quy Nhơn, di cư vào Xóm Nghề trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Ông là một trong những người đầu tiên có công khai phá, lập nên Xóm Nghề.
Đến đời thân sinh Nguyễn Trung Trực, gia đình ông đã khá giả, có đất hiến cho làng làm công điền. Từ nhỏ Nguyễn Trung Trực được học cả văn lẫn võ. Về võ, ông được đào tạo tại một lò võ ở rạch Bảo Định. Dựa vào tính tình cương trực, chân chất, hay cưu mang giúp kẻ thế cô, thầy đặt tên cho ông là Trực (tức tính ngay thẳng)…
Tháng 2-1859, Pháp đánh Gia Định. Năm 1861, Trương Định lúc đó giữ chức Phó Quản cơ Gia Định chiêu mộ nghĩa quân, tổ chức đánh Pháp nhiều trận. Khi Đại Đồn (ở phía Tây Sài Gòn) bị thất thủ, quân của triều đình theo lệnh rút về Biên Hòa. Trương Định đưa quân về đóng giữ xứ Gò Thượng, huyện Tân Hòa (Tiền Giang) để củng cố đội ngũ.
Tại đây, Nguyễn Trung Trực gia nhập nghĩa quân. Ông sớm bộc lộ tài năng nên được Trương Định trọng dụng, cho làm quyền sung quản binh đạo.
Thời gian này, Nguyễn Trung Trực được giao chỉ huy một bộ phận nghĩa quân hoạt động ở vùng Tân An, lập nhiều công trạng, tiêu biểu nhất là trận đánh chiếm và đốt cháy tàu Pháp tại vàm Nhựt Tảo (Long An) ngày 10-12-1861. Tiếp đó, Nguyễn Trung Trực lại chỉ huy nghĩa quân tấn công một tiểu hạm khác của Pháp trên rạch Tra (Gò Công)…
Năm 1867, Nguyễn Trung Trực được phong chức Lãnh binh tỉnh Gia Định rồi Thành thủ úy Hà Tiên, nhưng ông chưa kịp về Hà Tiên thì Hà Tiên đã lọt vào tay quân Pháp (ngày 24-6-1867). Nguyễn Trung Trực rút quân về Hòn Chông, mở rộng hoạt động về vùng U Minh (huyện An Biên ngày nay).
Sau một thời gian, Nguyễn Trung Trực kết nối với một số nghĩa sĩ ở vùng Tà Niên như Lâm Quang Ky, Trịnh Văn Tư, Ngô Văn Búp, Hồng Văn Ngàn, Nguyễn Văn Miên… nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động ra hướng Rạch Giá.
Đêm 16-6-1868, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân lợi dụng lúc trời còn tối đã tổ chức đánh úp, diệt và thiêu rụi đồn Kiên Giang, làm chủ tình hình nơi này một tuần lễ.
Quân Pháp phải điều quân từ Vĩnh Long qua Kiên Giang để chiếm lại tỉnh lỵ Rạch Giá. Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực quân ít, thế yếu phải rút khỏi Rạch Giá để bảo toàn lực lượng và lui về Hòn Chông. Quân Pháp tiếp tục đưa quân truy theo, quyết tiêu diệt nghĩa quân. Nguyễn Trung Trực quyết định rút ra Phú Quốc. Quân Pháp tiếp tục tăng thêm viện biên ra Phú Quốc.
Sau một thời gian cầm cự, do lực lượng quá chênh lệch, điều kiện hoạt động khó khăn, nghĩa quân ngày càng suy kiệt dần trong khi quân Pháp được sự bày mưu, hiến kế, tiếp tay đắc lực của số Việt gian, chúng dùng cả thủ đoạn bắt mẹ của Nguyễn Trung Trực và một số người dân làm con tin. Chúng công khai khủng bố người dân để trấn áp tinh thần của ông và nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân ngày càng yếu thế, Nguyễn Trung Trực quyết định hy sinh bản thân, ra đương đầu với quân Pháp mà không hề nao núng.
Ngày 19-9-1868, Nguyễn Trung Trực đã sa vào tay giặc. Thực dân Pháp đưa ông về Sài Gòn, dùng nhiều cách tra khảo và chiêu dụ ông đầu hàng, quy thuận nhưng đều thất bại. Biết không thể mua chuộc được ông, Pháp đưa ông về Rạch Giá xử chém, ngày 27-10-1868. (*)
Hình ảnh của người anh hùnh dân tộc Nguyễn Trung Trực gắn liền với hai chữ "Kiên Giang", với Rạch Giá. Như vậy, Kiên Giang không phải chỉ là tên một tỉnh, một địa danh mà mang cả một ý nghĩa lịch sử của dân tôc Việt Nam, của nhân dân miền Nam trong công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp dành độc lập cho tổ quốc. Việc xáp nhập hai tỉnh Kiên Giang và An Giang lại lấy tên mới là An Giang, xóa bỏ Kiên Giang là một điều đáng tiếc và "bất công" với lịch sử! Thử hỏi An Giang có ý nghĩa hay di sản lịch sử gì so với người anh hùng Nguyễn Trung Trực với " Kiếm bạch Kiên Giang khấp quỷ thần"!
Hay một cách nào đó khác hơn, tệ hại hơn là việc chọn tên mới An Giang cho việc xáp nhập là nhằm phai mờ dần, xóa dần những chứng tích lịch sử của nhân dân miền Nam, những anh hùng dân tộc miền Nam trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp! Để chỉ còn lại trong lịch sử là cuộc kháng chiến 9 năm và chiến thắng thần thánh Điện Biên Phủ 1954 mà thôi. Mong rằng không phải là như vậy..!?


Nguyễn Ngọc Hoàng
(*) Hình ảnh, tài liệu thu thập trên Internet

No comments: