Wednesday, April 29, 2020

Lời Trần Tình Của Người Thây Cũ(2)

_____________

CAO VỊ KHANH


Nguồn: Internet
Nguồn: Internet
trích…
……………
2.
Có lẽ để chấm phá cho đủ nét bi-hài của vở-tuồng-giải-phóng, tôi và một số đồng nghiệp cũng bị bắt đi tù-cải-tạo với một tội danh hết sức ngộ nghĩnh: “dạy học trò thi đậu tú tài để đi sĩ quan đánh phá cách mạng (sic)”.


Nhiều đêm, nằm trằn trọc trên tấm tôn lạnh buốt, trong ngôi đình làng được biến thành trại tù, tôi bật cười khan khi nghĩ tới tội danh “khôi hài” đến chết người này. Hóa ra từ mấy năm nay dạy cho học trò lòng nhân ái, nghĩa yêu thương, tình bằng hữu, biết thưởng thức cái đẹp, tôn trọng sự chân thực… là một cái tội. Tội chi mà tội lạ. Như vậy nếu theo đà lý luận này thì phải sát nhân, căm thù, phản trác, lật lọng mới là “cách mạng”. Nghĩ mà thương cho mớ chữ nghĩa của cha ông bị bóp méo vo tròn trong thời đại dối trá.
………………..
Giữa đêm oan khuất mịt mờ âm khí của trại giam, tôi cứ thao thức, mắt mở trao tráo, lăn lộn với những thắc mắc không lời giải đáp. Tại sao cuộc chiến 30 năm? Tại sao hòa bình? Để làm gì đống xương vô định đó? Chẳng lẽ để đánh đổi sự lệ thuộc này bằng sự lệ thuộc khác, tệ hại hơn cả vạn vạn lần?
………………..
Trong những lúc cùng quẫn nhất, sao tự nhiên tôi nhớ lại cặp mắt thất thần của người thi sĩ vô danh trong cuốn phim Docteur Jivago chiếu ở Sài Gòn mới vài năm trước. Trên chuyến xe lửa chở tù đi lưu đày xuyên Tây-bá-lợi-á vào thời kỳ cộng sản cướp chính quyền ở nước Nga, chen chúc giữa đám tù nhân nằm ngồi la liệt như cá đóng hộp, anh cố nhoi mình chen sát kẽ vách nhìn cho được con trăng cô đơn trắng lạnh, treo ở một góc trời. Cặp mắt mở trừng trừng mà như trống hoác, sâu thăm thẳm. Đôi con ngươi bất động như cố chụp bắt cho được con trăng đang chạy vun vút ngược đường tàu. Chắc anh nghĩ sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại vầng trăng lãng mạn đó nữa khi đất nước anh đã lọt vào bàn tay của lũ sát nhân. Sao tôi không quên được cặp mắt đó dù nhiều năm đã qua. Cặp mắt ngơ ngác, buồn rầu, bơ vơ đến tuyệt vọng. Tia nhìn như hai ngọn đèn hiu hắt chiếu rọi qua dặm trường thất lạc, như một thú nhận cho sự bất lực của những giá trị tinh thần trước cơn bạo hành của lịch sử. Cặp mắt như một hoi hóp của lương tri, báo hiệu cho thời đại suy tàn của con người. Sao cặp mắt cứ nhìn tôi chòng chọc ngay trong cơn mê mệt rã rời. Tôi thấy mình hấp hối như con cá mắc cạn, chờ chết. Và dân tộc tôi, dân tộc tôi cũng đang hấp hối chờ chết trong mẻ lưới khổng lồ đó.
Những câu hỏi “tại sao” cứ tiếp tục dằn vật, làm khổ tôi trong cuộc sống tù đày vốn đã không có gì dễ chịu. Những ngày tù kéo dài lê thê nhùng nhằng một cách vô tội vạ. Đúng y theo chủ trương bắt-lầm-hơn-tha-lầm, những người cầm quyền mới không biết phải giải quyết ra sao số phận của chúng tôi sau khi đã bắt nhốt vào đây. Càng lúc tôi càng cảm thấy buồn bực chua chát. Có dịp tiếp xúc với những cán bộ chính trị và quân sự của họ, tôi càng thấy vô lý cuộc bại trận của miền Nam và càng thêm bi quan cho những ngày sắp tới. Mức độ học vấn ấu trĩ, trong khi ý thức chính trị vừa cuồng tín vừa nông cạn của họ sẽ đưa đất nước tới đâu? Có lúc nghe họ nói chuyện, tôi có cảm tưởng đang đứng trước một đám người máy, lặp đi lặp lại y nguyên, không sai một dấu phẩy, không sót một dấu chấm những điều đã được cấy nhét vào bộ óc của họ, y như một con két nói líu lo mà không biết mình nói gì. Rồi ra chúng ta sẽ sống (hay chết!) ra sao với những người chủ mới, cầm quyền với mớ kiến thức cạn sớt, lòng hẹp hòi đầy mặc cảm và nhất là đường lối chính trị lỗi thời? Rõ ràng chúng ta đang sống vào một thời kỳ oái oăm của lịch sử, mới hết tang thương này đã vội sang đoạn trường khác. Những trái ngang đã liên tiếp xô đẩy bao nhiêu thế hệ người Việt vào cảnh chết chóc phân ly và bây giờ gọi là hòa bình, chúng ta vẫn tiếp tục phân ly thù hận. Chúng ta sẽ tiếp tục ly tán như vậy cho tới bao giờ. Cái cảnh một người học trò cũ, trước giấu mặt như một kẻ nằm vùng nay là một cán bộ thành danh, tình cờ đến gặp tôi, đứng trò chuyện bên kia hàng rào kẽm gai một buổi trưa giáp tết có phải là tiêu biểu cho nỗi oan trái đó không? Đứa học trò mà tôi đã dạy liên tiếp ba năm từ lớp đệ tam đến đệ nhất. Đứa học trò đã cùng tôi tranh luận về những chủ nghĩa chính trị xã hội khi ngồi đón mặt trời mọc ở bãi Đá Bàn một buổi sớm cắm trại ngoài hòn Sơn Rái. Nó có một cái tên khá đặc biệt mà tư tưởng và hành động đã làm tôi nghi ngờ – không, tôi biết chắc là có liên hệ với phía bên kia. Tại sao tôi giữ kín trong lòng mối bí mật đó? Tại sao tôi không báo với nhà trường? Với chính quyền? Tôi đồng ý với nó? Chắc chắn là không. Thương nó? Có thể có. Nhưng ở cương vị một người thầy, tôi có làm công việc điềm chỉ đó được không? Điều tôi giữ kín có phải không? Và như vậy tôi sẽ nói thế nào về người em họ, 19 tuổi, chuẩn úy vừa ra trường được 6 tháng, lãnh nguyên một tràng đạn AK trong đêm hưu chiến tết Mậu Thân, chết không kịp kêu lên một tiếng má ơi, chết mà chưa có được một người yêu để biết thương nhớ. Sự kín miệng của tôi có phải là một phản bội trắng trợn với những người bạn đồng lứa đã lặn lội ngày đêm trong những cánh rừng tranh dài bạt ngàn, những đầm lầy lún sâu tới ngực, cả tuổi thanh xuân nặng trình trịch ba-lô súng đạn, máu mồ hôi và nước mắt, ngày di hành tối nằm tiền đồn, để giữ an ninh cho một thành phố, một ngôi trường được yên lành học tập, một ngôi chợ được yên lành mua bán.
Tôi sẽ nói gì về người vợ trẻ mà cuộc sống lứa đôi chỉ là ngày tháng đợi chờ, về người góa phụ mới hai mươi tuổi ẵm đứa con sơ sinh đi nhận xác chồng, về những người mẹ người cha suốt đêm van vái khi nghe xa tiếng đại bác vọng về, về viên đạn trái pháo bắn ngay vào trường lớp Cai Lậy, về những hầm chôn người tập thể ở Huế, về trái lựu đạn nổ ngay giữa phiên chợ đầu xuân… Và sẽ nói gì với người bạn tù đang oằn oại dưới đòn thù tàn độc trong các trại lán cheo leo. Tôi sẽ trả lời ra sao với người phế binh đang lê lết ăn xin ngoài phố chợ?
Có lời nào để biện hộ cho cái thái độ im lặng đó?
Câu hỏi quái ác như cái mỏ nhọn hoắc của loại dị điểu quặp cứng trái tim của tôi, rỉa rói để tìm cho được câu trả lời. Nhưng có câu trả lời nào đâu em! Ai nói được cho tôi thái độ của người học trò cũ, người cán bộ của tỉnh ủy bây giờ, nếu đổi ngược vai trò, có sẽ giữ kín “bí mật’’ của người thầy cũ dưới thời “công an trị”.
Ai sẽ giải thích giùm tôi về thái độ cầu an, thờ ơ, thụ hưởng của người-dân-hậu-phương suốt cuộc chiến 30 năm, cuộc chiến tranh gọi là toàn diện mà mỗi gốc cây là mìn bẫy, mỗi bãi cỏ che giấu một hầm chông tẩm độc, mỗi lời nói là một âm mưu, mỗi hình ảnh là một dàn dựng thâm hiểm…
Ai sẽ giải thích giùm tôi những trác táng của đêm Sài Gòn xa hoa, những nhớp nhúa của tối Chợ Lớn trụy lạc, những đồng bạc mua nửa miệng cười gái nhảy bằng cả tháng lương của anh binh nhì gạo sấy lương khô ngày này sang tháng khác…
Ai sẽ nói giùm tôi về ông tướng hối lộ, ông dân biểu buôn lậu, những ông trí thức ngồi xa-lông bàn chuyện quét dọn xã hội, những tuyệt-thực-tự-thiêu, những bãi-khóa-xuống-đường, những ký-giả-bị-gậy-đi-ăn-mày, những phong-trào-đòi-quyền-sống v.v… và v.v… Ai sẽ chỉ rõ cái trách nhiệm của tôi, của anh, của chị, của chúng ta trong cơn đổ vỡ này?!
Có ai không? Hay chỉ là những im lặng đồng lõa, những nín thinh cam phận, những lãng tránh vu vơ, hay chỉ là những đổ thừa tệ bạc, những trốn chạy hèn nhát… Và tôi, tôi đã đóng vai trò gì trong vở tuồng trường hận đó?!
Cái trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta đến đâu, làm sao tính toán đo lường được. Chỉ thấy rõ một điều là ngày hôm đó, người học trò đứng bên kia hàng rào, phía kẻ chiến thắng, và tôi bên này, phía bại trận, người thầy đã từ chối làm một-việc-cần-làm. Hằng hà sa số công-việc-cần-làm khác đã bị bỏ lỡ, bị từ chối, bị trốn tránh… Và bây giờ cuộc tháo chạy, sự đổ vỡ, cảnh tù đày, nỗi tiếc hận có phải là cái giá của một nền đạo đức mà tôi đã được nuôi dạy, của một tình tự mà tôi đã nghe ru từ thuở nằm nôi. Cái nhân nghĩa mà người bên này đã chọn lựa, đã chiến đấu để bảo vệ cho dù đó là một trong những đầu mối của cuộc thất bại trong cuộc chiến trường kỳ giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai.
Ai sẽ trả lời? Và trả lời ra sao cho câu hỏi oái oăm đó?
Những ngày cuối năm, trời bỗng trở lạnh bất thường, lạnh như miền Nam chưa từng có. Tối tối đám tù tụ năm tụ bảy nhúm củi khô mót lượm từ chiều để sưởi ấm. Ngọn lửa rọi chập chờn từng mặt người ủ dột. Ai nấy buồn thắt dạ bởi không ai biết được ngày về. Cái lạnh kỳ cục chui rúc vào xương tủy làm như để nhắc nhở con đường khổ nạn nằm ngay chính trong ta. Sân trại rộng mênh mông, rải rác vài đốm lửa hiu hắt, mập mờ mấy bóng người quấn khăn mền sùm sụp im lìm đi tới đi lui trông không khác gì cảnh âm ty mộ địa. Đó lại là lúc dễ chịu nhất trong ngày của một người tù, bóng tối trở thành người bạn thân thiết, đồng lõa, sẵn sàng che giấu giùm ta mọi điều thầm kín. Ban ngày, ngay cả những lúc cuốc đất đào mương dỡ rào phá cổng, những cặp mắt cú vọ của bọn vệ binh, quản giáo nhìn ta gườm gườm như đã thù nhau từ muôn kiếp. Mọi cử chỉ, mọi ý nghĩ đều phải thận trọng kềm giữ nếu muốn tránh khỏi bị cùm chân hay nhốt vào thùng sắt biệt giam. Đêm về, chỉ còn ta và bóng tối. Đêm về chỉ có ta và gió và mây và tất cả những gì mà chế độ mới cấm đoán. Và nhất là những câu thơ kêu gào trong đầu khi giấy bút đã bị tước đoạt, tự do đã bị cướp mất. Những ngày đó tôi làm từng câu thơ vụn vặt, rời rạc giữa hai nhát cuốc, giữa mấy gánh đá nặng còng lưng, lẩm nhẩm thầm trong đầu cho khỏi quên, đợi đến đêm về trong bóng tối chập choạng, tìm cách chắp nối gói ghém lại thành bài. Những bài thơ lóng lánh từng giọt mồ hôi và nước mắt nhục nhằn.
Tôi ba mươi tuổ̉i chế́t không mồ
Giữa trái tim nồng nhát chém khô
Đã khóc Khuấ́t Nguyên thời trẻ dại
Mắ́t giờ cay xé chuyện dời đô
Tôi viết điếu khúc cho tôi, cho anh em, cho bạn bè tôi, cho một dân tộc vừa bị bức tử. Tôi viết điếu khúc cho người còn sống hay đã chết. Tôi viết luôn cho người chưa sanh ra, bởi vì đất nước mà tôi để lại cho em sẽ không còn là cái quê hương hiền lành với tình người rạt rào như sóng lúa và đậm đà như sông nước phù sa. Tôi đã khóc không thành nước mắt hay chính là nước mắt đã chảy ngược vào lòng, khô quắt. Vì đúng ra có giọt nước mắt nào đủ mặn cho cuộc tang thương này.
Ôi vết thương sầu tận đáy tim
Năm năm vật vã nỗi đau chìm
Đêm đêm máu gọi trường thiên hận
Dậy lúc tàn trăng lạnh bóng đêm
Cái vết thương không bao giờ lành. Cái vết thương còn mưng mủ nhiều năm về sau nữa.
Cao Vị Khanh

No comments: