Thầy Lâm Vị Thủy "Lâm Vị Thủy: Nhà thơ giữa cõi không cùng" - Trần Hoài Thư | ||
Nữ sinh Chân Phước Liêm chụp hình lưu niệm cùng Thầy | ||||
| ||||
Lâm Vị Thủy: Nhà thơ giữa cõi không cùng
Trần Hoài ThưNguồn: BLOG TRẦN HOÀI THƯ
Lâm Vị Thủy sinh vào ngày 28-4-1937 mất ngày 21 tháng 7 năm 2002. Lập gia đình được 2 gái 3 trai.. Giáo sư Việt Văn tại một số trường tư thục tại Sài Gòn. Viết văn, làm thơ. Thường xuất hiện trên tạp chí Phổ Thông. Trong nhóm Tao Đàn Bạch Nga. Sau năm 1975 có thời gian ở tù trong khám Chí Hòa. Ra tù trải qua những tháng năm cùng cực và cô đơn. Thi phẩm xuất bản: Sao em không về làm chim thành phố, do HuyềnTrân xuất bản vào năm 1963. Vào một buổi chiều của tháng 7 năm 2011, trong một bữa cơm thân hữu tại tư gia nhà văn Trần Yên Hòa tại Anaheim, Nam California, để góp vui cùng bạn hữu, gia chủ đã đứng lên đọc một bài thơ mà anh cho biết không rõ tên tác giả. Đó là một bài thơ tình. Lời thơ thật đẹp, dạt dào cảm xúc. Và tôi đã mang nó làm hành trang theo chuyến bay trở về lại New Jersey: Buổi sáng trời mưa tôi trở dậy Soi mặt mình bằng phiến gương đen Chợt thấy hình em sầu đóng bụi Nỗi đau này em nghe chăng em Thành phố chừng như quên giấc ngủ Tôi đi không kỷ niệm che đầu Không em làm ấm vòng tay lạnh Không cả ngày chưa quen biết nhau Tôi dẫn tôi vào trong lớp học Mây lên màu trắng áo thiên thần Bàn tay e ấp trên trang sách Trông dáng ai mà thương cố nhân Sao em không là em thuở ấy Để mỗi chiều tôi đón cổng trường Đường xưa còn dấu chân em đấy Gót nhỏ giờ vui mộng viễn phương Mùa xuân nào mưa bay mãi đây Xa nhau không một ánh trăng gầy Nửa đêm nghe tiếng xe về vội Tôi đốt đèn lên ngồi ngắm tay Ơi tình yêu đã về hay chưa Còn đây từng tháng đợi năm chờ Còn đây một nét môi cười đó Em vụt tầm tay tôi bơ vơ Tình yêu, tình yêu, tình yêu ơi Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi Hồn tôi muốn khóc làm sao dỗ Em của người ta, tôi của tôi. Trở về, tôi lên internet để truy tìm nguồn gốc. Mới biết tác giả là nhà thơ Lâm Vị Thủy. Sưu tầm thêm, được tổng cộng tất cả 5 bài… 5 bài cho một cuộc đời của một người thi sĩ. Càng cay đắng hơn khi đọc những giòng sau đây, trên một trang mạng:
“…Bàn tay tôi lần giở những trang thơ cũ xa xưa…1978. Cô sinh viên văn khoa vẫn thường trốn học lang thang hàng giờ và vùi đầu vào hết thư viện này đến thư viện khác, hôm ấy vô tình tìm thấy trong một ngăn giá sách nằm khuất sâu phía trong một cuốn thơ
Cô sinh viên ấy là mẹ tôi. Mẹ tôi mê thơ của Lâm Vị Thủy đến mức từng chọn đề tài luận văn là Chủ nghĩa hiện sinh, nhưng khi đăng ký, người ta trả lời rằng không có ai hướng dẫn đề tài…mỏng đã ố vàng. Một cái tên lạ, hầu như chẳng bao giờ thấy trong các cuốn sách, các tạp chí phê bình. Nhưng ngay từ những dòng mở đầu, cô đã thấy gợi lên một cái gì đó thật đặc biệt trong đời sống tâm hồn của nhà thơ, một cái gì đó u ám, day dứt, cô đơn… Ẩn sâu trong những dòng thơ tưởng như viết ra vội vã và giản đơn là cả một tâm hồn thật yếu đuối trước những biến động của cuộc đời … Đó là tập thơ in năm 1963 của NXB Huyền Trân, tập thơ mang một cái tên thật lạ, lạ như chính những dòng thơ ấy… “ Sao em không về làm chim thành phố”… Tôi không chú ý lắm đến cái tên và những dòng mở đầu trong tập thơcủa ông, nhưng thật sự bị hút vào bài thơ “Cuối cùng” và “Thơ củanhững người không yêu nhau”, dù khi ấy tôi còn rất nhỏ để có thể hiểuthấu đáo những lời ông viết. Tôi cũng không đọc nhiều về chủ nghĩahiện sinh, nhưng với tôi, và có lẽ cả với mẹ tôi, đến bây giờ Lâm Vị Thủy vẫn là một ẩn số, một cái tên lạ. Tôi chưa từng thấy ở đâu cái tên ấy, trong sách vở, trên mạng, trong các tạp chí nghiên cứu phê bình văn học. Và sẽ tuyệt vời biết bao nếu tôi được nghe bạn nói với tôi về nhà thơLâm Vị Thủy, người đã viết những dòng thơ khắc khoải buồn rầu, gợi lên những góc khuất trong tâm hồn mà đôi khi ta tưởng như đã rơi vào vội vàng cuộc sống…
(Nguồn: Diễn Đàn CĐV SLNA: Sao em không về làm chim thành phố )
Sau đó, người viết đã cho post 4 bài thơ trong thi tập. Có điều bài thơ chánh là bài Sao em không về làm chim thành phố, người viết đã trích lọc và bỏ rất nhiều câu (khoảng 46 câu). Nguyên do có lẽ là chúng “dị ứng” đối với chế độ cai trị đương thời chăng?
Đó là lý do thôi thúc chúng tôi cố gắng sưu tầm và giới thiệu một cách nghiêm chỉnh nhà thơ Lâm Vị Thủy trong TQBT số này… (xin mời đọc trọn bài không cắt xén trong phần trích thơ LVT)
Tiểu sử và cuộc đời nhà thơ Lâm Vị Thủy
Không có một tài liệu hay sách báo nào cho biết về tiểu sử của Lâm Vị Thủy, dù chỉ vài dòng ngắn ngủi. Ngay cả tập thơ “Sao em không về làm chim thành phố” (SEKVLCTP) do Huyền Trân xuất bản vào năm 1963, chúng ta cũng không thấy một giòng chữ về tiểu sử như hầu hết tác phẩm của các tác giả khác. Tuy nhiên, trong ba trang đầu, “Cho Hoàng những ngày thơ mộng cũ”, ông đã hé lộ về một phần của cuộc đời thiếu thời và thanh xuân của ông:
“ Thuở nhỏ, anh sống ở một miền ngoại ô, trong sự cơ cực của những người thân yêu. Các em anh không bao giờ có lấy một cái áo lành lặn để mặc trong những ngày giỗ tết. Anh có người chú ham đọc các sách viết về các tôn giáo, chủ nghĩa và thích đánh bạc ngay với cả cuộc đời mình.
Anh nuôi nấng những hình ảnh thiếu thời ấy cho tới trưởng thành và lăn vào đời với hai bàn tay trắng, với những ý nghĩ trả thù. Anh đã phải sống không một tiếng nói, không một nụ cười bao nhiêu năm rồi.
Anh còn sống thế này bao lâu nữa…”
(SEKVLCTP, trang 10)
Ông là một giáo sư Việt Văn, dạy các trường tư thục như Âu Lạc, Văn Lang, Chân Phước Liêm ở SG. Phước An ở Bà Chiểu. Về mặt sinh hoạt văn học nghệ thuật, ông là thành viên của nhóm Tao Đàn Bạch Nga của tạp chí Phổ Thông. Ông làm thơ rất ít, thỉnh thoảng viết truyện ngắn.
Hầu hết những sáng tác của ông xuất hiện trên tạp chí Phổ Thông. Bài thơ nổi tiếng được truyền tụng nhất của ông là bài “Tuần của tình yêu”, được đăng trên Phổ Thông số 120 ngày 1-2-1964. Trên mạng, bài thơ này đổi thành “Hình như kỷ niệm”. Chúng tôi không biết lý do tại sao và phải chọn tựa nào cho đúng. Nguyên bản bài thơ sẽ đăng lại trong phần thơ trích dẫn để bạn đọc thưởng lãm.
Sau 1975, ông trải qua một thời gian bị tù trong khám Chí Hòa. Trong cuốn Hồi ký Khám Chí Hòa, tác giả Vĩnh Khanh cho biết Lâm Vị Thủy là người rất thông suốt về khoa Tử Vi. Tác giả đã kể lại chuyện ông được nhà thơ Lâm Vị Thủy truyền dạy tử vi như thế nào qua cái ống nước khi hai người ở hai phòng giam không hề thấy mặt nhau… Khi chúng tôi hỏi tác giả có biết gì về cuộc sống của nhà thơ Lâm Vị Thủy sau khi ở tù ra, thì tác giả Hồi Ký cho biết như sau:
“…Sau khi ra tù Chí Hòa, tôi có tìm đến địa chỉ ở Hóc Môn Bà Điểm mà ông đã cho khi còn trong tù để thăm ông. Nhà của ông lúc đó không còn nữa, ông xin tá túc trong một gia đình hàng xóm. Khi tôi đến thì ông không có nhà. Trong khi ngồi chờ ông, hai vợ chồng chủ nhà có cho tôi biết thêm về hoàn cảnh của ông. Sau khi ông ra tù, nhà cửa không còn, người thân cũng không còn ai. Ông không còn chỗ tá túc nào nên đến xin ở nhờ gia đình này, với lời hứa sau khi tìm được việc làm sẽ trả tiền thuê nhà sau. Tuy nhiên ông không thể tìm được một việc làm nào ổn định cả. Mỗi ngày ông đi lang thang khắp nơi tìm bạn hữu hoặc người quen nào đó khả dĩ có thểgiúp cho ông được một chút ít tiền bạc, hoặc việc làm lặt vặt … cứ thế lây lất qua ngày. Qua lời nói của hai vợ chồng chủ nhà lúc bấy giờ, tôi nhận xét thấy họ không còn hoan nghênh ông nữa, chỉ muốn ông có thể tìm được một chỗ nào khác và rời khỏi nhà họ càng sớm càng tốt để họ khỏi phải vướng bận! Tôi nghe chuyện này từ hai vợ chồng chủ nhà mà thấy buồn vô cùng. Ngồi được một lúc thì ông về. Ông rất mừng khi gặp lại tôi, tuy nhiên cũng rất ái ngại khi ở trong một hoàn cảnh như thế . Tôi hiểu ý nên mời ông đi ra ngoài ăn sáng. Tôi còn nhớ chúng tôi đã ăn cơm tấm buổi sáng hôm đó. Ông nói với nụ cười thật buồn khi chủ quán mang hai dĩa cơm tấm đặt trên bàn: “Anh biết không? Từ khi ra tù đến nay, đây là bữa ăn sáng thịnh soạn nhất của tôi!“. Câu nói đã làm tôi xúc động rất nhiều. Một người tài hoa như thi sĩ Lâm Vị Thủy lại có lúc sa vào một cảnh ngộ thê thảm như thế. Lúc đó tôi không mang theo tiền nhiều trong người nên chỉ có thể gởi cho ông một ít. Tôi hẹn với ông mấy hôm sau gặp lại để biếu ông thêm. Lần thứ hai tôi gặp ông ở quán Xuân Lạc Viên, gần cổng xe lửa số 6, Phú Nhuận. Tôi biếu ông thêm một số tiền và có cho ông biết là tôi sắp đi vượt biên. Từ đó tôi không gặp ông nữa.” (trích email trả lời) Từ đó tôi không gặp ông nữa. Cánh cửa thế gian đã tàn bạo đóng ầm lại, quay mặt phũ phàng dù người ấy là một giáo sư nổi tiếng có rất nhiều học trò và một nhà thơ được nhiều người mến mộ! Giờ đây tôi chỉ biết cậy vào Google để may ra còn được gặp ông. Mà Google cũng chịu thua. Nếu Google có giúp chăng thì chỉ một giòng ngắn ngủi trong truyện ngắn của Hoa Hoàng Lan: “Sợi tóc bạc”, theo đó, tác giả cho biết giáo sư Lâm Vị Thủy đã qua đời trong đói nghèo, bệnh tật và túng bấn (nguyên văn). http://kekhopk.com/forums/index.php?showtopic=23508&mode=threaded&pid=91178 Tôi muốn kiểm chứng cho chắc chắn, nên gởi một lá thư về tác giả qua trung gian một tờ nhật báo, nơi tác giả Hoa Hoàng Lan đã và đang cộng tác, nhưng rất tiếc vẫn chưa nhận được hồi âm. Giả dụ nếu ông còn sống, thì tính đến nay, số tuổi của ông tối thiểu cũng phải 75 tuổi, tức là sinh vào năm 1936. Bởi vì, qua bài thơ Một người bỏ đi trong thi tập (được hoàn tất vào tháng 8-1962), Lâm Vị Thủy có thố lộ số tuổi của mình: Em về Phú nhuận hay đâu Còn tôi hai sáu tuổi đầu rồi đây(SEKVLCTP, trang 20) Nếu có gì sai, xin quí bạn vui lòng cho chúng tôi biết, xin hết lòng cám ơn. (1) ____ (1) Chúng tôi mới nhận được tin từ một người cựu học sinh trung học Chân Phước Liêm cho biết nhà thơ sinh năm 1937 và mất năm 2002. Có nghĩa là chúng tôi đoán sai một năm. THƠ LÂM VỊ THỦYĐiệu buồn theoTôi đã về tôi đã về đây Thềm sương mù tỉnh giấc trưa gầy Dấu chân xưa mất trong màu cỏ Tôi vẫn còn đây vẫn trắng tay Khói xanh dòng thuốc khơi tàn mộng Mùa xuân nào mang em ra đi Em đi thì có bao người tiễn Thì lỡ bao nhiêu chuyện ước thề Em ở đâu rồi em ở đâu Bốn phương trời để một tôi sầu Em mười mấy tuổi trăng mười mấy Sao bắt tôi chờ trọn kiếp sau. Còn gì cho nhau Trời mưa làm buồn khu phố nhỏ Tàu sẽ xuôi hay ngược chiều nay Còi xa bật khóc lên rồi đó Em sẽ đi, mình xa nhau đây. Những ngón tay gầy thưa kỷ niệm Anh cho em cho quê hương này Nửa đời anh đấy anh tìm kiếm Ôi nghìn thu nào chưa mây bay .Anh nghĩ hồn anh là bọt bể Vẫn đơn côi và mãi mang sầu Lần xưa đã lỗi lầm như thế Em có bao giờ em biết đâu? Tuần của tình yêu Chủ Nhật Buổi sáng trời mưa tôi trở dậy Soi mặt mình bằng phiến gương đen Chợt thấy hình em sầu đóng bụi Nỗi đau này em nghe chăng em? Thứ Hai - Thành phố chừng như quên giấc ngủ Tôi đi không kỷ niệm che đầu Không em làm ấm vòng tay lạnh Không cả ngày chưa quen biết nhau Thứ Ba - Tôi dẫn tôi vào trong lớp học Mây lên màu trắng áo thiên thần Bàn tay e ấp trên trang sách Trông dáng ai mà thương cố nhân Thứ Tư - Sao em không là em thuở ấy Để mỗi chiều tôi đón cổng trường Đường xưa còn dấu chân em đấy Gót nhỏ giờ vui mộng viễn phương Thứ Năm - Nghìn thu còn mưa bay mãi đây Xa nhau không một ánh trăng gầy Nửa đêm nghe tiếng xe về vội Tôi đốt đèn lên ngồi ngắm tay Thứ Sáu - Ôi tình yêu đã về hay chưa Còn đây từng tháng đợi năm chờ Còn đây một nét môi cười đó Em vuột tầm tay tôi bơ vơ Thứ Bảy - Người yêu, người yêu, người yêu ơi Mùa thu, mùa thu, mùa thu rồi Hồn tôi muốn khóc làm sao dỗ Em của người ta, tôi của tôi. (trích Phổ Thông số 120 ngày 1-2-1964) - Bài thơ này được phổ biến trên một vài trang mạng với tựa đề: Hình như kỷ niệm (Tòa soạn chú thích) Sao em không về làm chim thành phố 1.Thôi bây giờ đã vào mùa hạ Tôi xin làm trẻ thơ Giấc ngủ trần truồng bên đồi cỏ rối… Thôi bây giờ tôi giã từ em Câu chuyện hoang đường hồi nhỏ dại Như kẻ từ sa mạc tìm về Như thuở nằm nôi chưa lần rửa tội Thôi bây giờ tôi trả cho tôi Những khoảng tâm hồn hoang vu, cằn cỗi Mà đau đớn vô cùng 2. Căn gác bỏ quên ly cà phê đen Hình bóng em cuối mỗi con đường Mang tên một hành tinh xấu số Những gốc cây hô hào đòi lật đổ Sự lỗi lầm nào đã buộc chúng ta vào nhau Khi trời chưa mùa hạ Khi tôi chưa là người thủy thủ già Bới tóc người yêu trên cát 3. Thôi bây giờ người đưa thư không đến nữa Tôi sống bằng màu áo em mang Bằng những buổi trưa đón em về ngã tư đèn xanh đèn đỏ Như những ngày mưa chợt đến vội vàng Những thoáng vui làm phiền muộn Tôi lang thang ra bờ sông Dòng nước đen sâu hình ảnh tôi muôn đời Vẫy những con tàu đi không trở lại Vẫy những người đưa thư đi qua Những kỷ niệm nhích xa mình mãi mãi Bởi vì vẫn đi nên chịu một mình Như chuyến xe lăn tròn cỏ xấu Tôi để tôi ngồi ghế đá công viên Chép sử đời mình đám đông dòm ngó Kẻ nào dơ tay thề trên hồn mình Kẻ nào đứng lên chửi thầm đồng loại Sao em không về làm chim thành phố Lệ nhỏ hai hàng khép đỉnh ngọn cây 4. Này đây ngàn chuỗi ưu tư Em bó mình tôi trước giờ tôi chết Rồi thôi tất cả chẳng còn gì Thềm nhà đất ẩm em chân không Gian phòng tôi nghĩa địa Với áo cỏ gai nụ hôn đầu cúi mặt Tôi biết viết gì cho em Khi những cánh thư quên đường Gia Định Khi những cánh thư thôi về Bình Dương… Tôi xin em một bài vọng cổ Tôi xin em một điệu nam bình Người tình mình ở mãi phương xa Môi sốt hồng mệt mỏi Mùa lạnh tái tê này Khoe quyến rũ 5. Em biết không quê hương mình Thế hệ xưa là bóng núi Xui lòng em giận hờn Tôi nguyền rủa tôi Kẻ tội đồ chứng nhân lịch sử Em biết không khi chối bỏ cuộc đời Tôi sẽ gọi tên em như một lời cầu cứu Tôi sẽ gọi tên em vì tôi bơ vơ Khi con đường phố chợ Khi xóm bình dân những bữa cơm gia đình Muốn khóc. Hãy cho tôi được nắm lấy tay em Được giữ rất lâu hai bàn tay bé nhỏ Để nghĩ rằng quê hương chưa xa mình Để nghĩ rằng tôi hãy còn tất cả Ôi tình yêu và tuổi trẻ nhục nhằn 6. Như mùa thu âm thầm đến muộn Áo mỏng trời sương lồng ngực đau Viền chỉ tay sần sượng Tôi mua tờ báo loan tin buổi chiều Thân thể khắc đầy những danh từ cách mạng Em biết không. Bởi vì chúng ta đã trưởng thành Bởi vì chúng ta không quyền lựa chọn Chúng nó bất công giết người khủng bố Nên chúng ta cần đốt lửa trái tim Nên chúng ta cần có nhau mỗi ngày Bởi vì chúng ta cùng chung lịch sử Bởi vì chúng ta cùng chung chặng đường 7. Vỉa phố gót chân mềm mưa mang vào thư viện Mỏi hơi nằm ôm sách Tường cao tường cao mênh mông Kẻ nào đứng lên kêu gào thảm thiết Tự do – tự do Cho những người đã chết 8. Tôi sẽ đưa em vào quán rượu Nhịp điệu hành hình man rợ công khai Làm gã trai lơ phóng đãng chơi bời Buôn bán niềm vui hắt hủi Như người ta gỡ tấm khăn choàng nghẹt thở Tôi đưa em ra bờ sông Khánh Hội mồ côi Tân Thuận sình lầy Chánh Hưng không đành thiếp mệt Như người ta gỡ tấm khăn choàng nghẹt thở Tôi đưa em về vườn bông trái Lái Thiêu Ngọt bưởi Biên Hoà phù sa Bassac Em ngủ vai tôi ngậm tròn nước mắt Em ngủ vai tôi tiếng hát êm đềm: - “ Nhà bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về…” Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về… 9. Em còn nhớ không sân ga Hàng Cỏ Năm cửa ô nghèo khổ Ngục tù Những tháng năm chìm Mai Lĩnh Hà Đông Mồ hôi nước mắt Em còn nhớ không Cống Trắng Nam Đồng Chữ học ban đầu Em còn nhớ không Em còn nhớ không Chúng nó bất công giết người khủng bố Nên chúng ta cần đốt lửa trái tim Nên chúng ta cần có nhau mỗi ngày Bởi vì chúng ta cùng chung lịch sử Bởi vì chúng ta cùng chung chặng đường Như mùa xuân bé bỏng mong chờ Như tuổi lên mười thơm hiền sữa mẹ Tôi cũng muốn tin như em đã tin rằng phải có những tín điều Để buộc liền chúng ta với nhau Để buộc liền chúng ta vào xứ sở Tôi cũng muốn tin như em đã tin rằng chỉ có tình yêu là đáng kể Và khuôn mặt em ngời hy vọng cuối cùng 10. Thôi bây giờ em khóc đi em Như những người quen nhau ngoài phố Những trang nhật ký buổi đầu Không căm thù giả dối… - Bài này được phổ biến trên một vài trang mạng với 80 câu. Chúng tôi xin phổ biến toàn bài (ghi chú của Tòa soạn) Cho một người xem Bỏ ngoại ô những chiều thứ bảy Những đường mòn khấp khểnh bánh xe lăn Tôi vào thành phố Mẩu thuốc cuối cùng cháy ngúm hai đầu ngón tay Lối về nhà em mùa này chắc lạnh Những súc gỗ lột da nằm sân ga hổn hển Bụi than làm xám đen nền trời kỷ niệm ngày hai đứa mới yêu nhau Những mẩu chuyện thần tiên hồi trẻ dại Tóc em đùa cánh đồng đừng buông lau gió thổi Có phải cuộc đời như ga xép Chúng mình những chuyến tàu quen thuộc Đôi mắt người xếp tanh* giờ ngó tìm qua vuông kính mở Những dòng sông Những cánh rừng cao su chưa lấy mủ Tôi đã khóc khi nghĩ rằng ngày mai tôi có thể quên em Quên một người con gái mang tên Hoàng Dù chỉ là trong giấc ngủ Tôi xin được làm con chim nhỏ Con chim màu xanh Những sớm mai đậu ngoài cửa sổ Dỗ giấc em ngon lành Đừng bao giờ giận hờn nhau… Cuối Cùng Thứ bảy mà sao trời muốn khóc Không em thành phố trống vô cùng Tôi đứng chờ xe mà sợ lạc Chuyến xe nào mang tôi xa thêm em Như thuở mười lăm thường trốn học Hồn tôi lang thang đi tìm mình Dấu tay thượng đế quên điểm chỉ Tôi đem thân mòn phơi công viên Em vùi da thịt trên bồn cỏ Cột điện làm se những sợi vàng Lời trăn trối nén tung ngoài lệ Hai đứa gần nhau giấc ngủ đen. Thơ của những người không yêu nhau Một mình tôi trên chiếc buýt buổi chiều Chiếm lấy chỗ ngồi riêng người tàn tật Xe qua sông khi thành phố đang mưa Những ngọn đèn xa mang màu mắt đỏ Cát biển mặn mòi tôi thân sỏi nhỏ Còn sót lưng năm bảy ngón ngang tàng Tôi muốn ôm và hôn em lần cuối Lịch sử chúng mình du đãng con hoang Rồi ngày mai tôi tới lớp một mình Ngồi chỗ em ngồi bỗng dưng thèm khóc Khung cửa sổ này, lối đi xưa còn đó Bầu trời xanh và sắc áo em đâu Tôi trở về hai bàn tay mở ngỏ Không gia đình, không xứ sở, không em Đem tên tôi đi gõ hỏi từng người Xin giấc ngủ với vô vàn kỷ niệm. Ngày tháng năm Tôi sẽ về Gia Định chiều nay Chiếc buýt cuối cùng qua sông cầu mới Những ngọn đèn vàng ngậm cười ven bãi. Tôi sẽ ngồi quán cà phê đầu đường đất đỏ Kêu một ly đen nhỏ Đợi chuyến xe bò chở rác về khuya. Bây giờ tháng bảy trời đương mưa Em lấy chồng tháng ba năm ngoái Tôi thiếu em những ngày xưa ngu dại Em nợ tôi dăm ba lời tạ từ. Bởi vì không quê hương nên nghĩ mình yếu đuối Tôi trở về mang dấu chàm tử tội Và những chuyện thần tiên những chuyện thần tiên chưa từng kể Không có em còn nói cho ai Không có ai Gia Định còn gì để tôi quyến luyến. Như những người lái xe đi qua đời mình nhắm mắt Tôi trở thành lãng tử trong ca dao Tóc rối ưu tư nụ cười nửa miệng Thuốc hút vàng tay mà vẫn se môi Không có em những tuần trăng ở đây vô nghĩa Chủ nhật nhà thờ không người dự lễ Tôi đi vào những lối đi xưa Gọi tên em cùng với lúc thành phố lên đèn Và tiếng còi tầu chợt đến rất xa xôi Phải chi em đừng có nhiều kỷ niệm Phải chi tôi đừng thèm biển rộng sông sâu Thì em muôn đời vẫn là người yêu đơn sơ bé nhỏ Thì tôi không bao giờ phải khóc hôm nay… Lâm Vị Thủy ----------------------------- *Chú thích của TS TQBT: Xếp tanh (từ gốc chữ Pháp “Chef de train”) là nhân viên hỏa xa phụ trách tổng quát trên xe lửa. | ||||
Tập thơ có những bài rất hay, như những bài mà ông Trần Hoài Thư đã sưu tầm được.Tôi tò mò muốn biết nhiều về tác giả này, nhưng chỉ biết đước rằng ông đã từng dạy trường Văn Lang- Saigon mà thôi. Tôi luôn nghĩ rằng: không phải người tài hoa nào cũng nổi tiếng vì lẽ rằng làm thơ như Lâm Vị Thủy mà không có tên trong danh sách những nhà thơ lớn của miền Nam trước 75 thì thật là một điều thiếu sót lớn. Cách đây 2 năm tình cờ vào web:phodatron.net của nhà văn Vĩnh Khanh đọc được một bài thơ của Lâm Vị Thủy tôi vội email hỏi về Lâm Vị Thủy thì biết rằng ông Khanh đã từng ở tù với Lâm Vị Thủy ở Khám Chí Hòa, ông cho biết rất quý mến nhà thơ này và cũng rất mong được liên lạc với Lâm Vị Thủy:
những câu cuối của bài thơ Sao em không về làm chim thành phố là:
Kẻ nào đứng lên thề trên hồn mình
Kẻ nào đứng lên chửi thầm đồng loại
Sao em không về làm chim thành phố
Nắng đổ hai hàng khép đỉnh ngọn cây
Bây giờ tôi thật hài lòng mà biết rằng không phải chỉ mình tôi ở tuổi đôi mươi đã và luôn yêu thơ Lâm Vị Thủy, mà cũng có rất nhiều người đã yêu thơ ông. Tôi hy vọng trong một góc ẩn khuất nào đó trong ngôi nhà xưa tập thơ “Sao em không về làm chim thành phố” vẫn còn đó. Bao nhiêu năm rồi tôi chưa có dịp trở về nên hy vọng vẫn là hy vọng.
Xin chân thành cảm ơn ông Trần Hoài Thư và quý đọc giả gần xa đã đóng góp tin tức, tài liệu về nhà thơ Lâm Vị Thủy, một người tài hoa trong văn đàn miền Nam Việt Nam trước 1975
Kính bút
Mimosa Phương Vinh
Berryhill-TN