Chân Diện Mục
_______________
Một vị
nghiên cứu địa danh miền Nam. Tới một tên là lạ, thì hỏi người địa phương. Thí
dụ như một cửa sông có tên là Cung Hầu. Tra cứu sách vở thì vô ích thôi, bèn
hỏi người địa phương, té ra nơi đó là Cồn Ngao. Cồn Ngao, các cụ viết sách bằng
chữ nho bèn ghi là Cung Hầu! Nhà nghiên cứu bèn gọi cách giải thích dân gian đó
là Tự Điển Dân Gian.
Dĩ nhiên
có những địa điểm mà dân gian cũng như trí thức đều mít đặc như các địa danh
xóm Cù Bà Cây Mít ở Bình Định và Lá Hanh Chắt đốt ở Sóc Trang! Gặp những trường
hợp đó thì người ta đành chào thua thôi!
Tôi thấy
tìm hiểu đề tài này cũng thú vị lắm. Tôi xin kể hầu quí vị từ Bắc vô Nam.
Bắt đầu từ địa danh Hòn Gay tôi khoái chí tử! Hầu hết các cách giải thích đều không dược người ta thỏa mãn! Tôi đi tìm mấy ông Tây tới thám hiểm đầu tiên. Tôi nắm đầu cái ông Tây đầu tiên ghi tên nơi này. À! Thì ra Kon gai: Viết chữ K chứ không phải chữ H, viết I hai chấm đầu chứ không viết y. Thú vị quá! Mấy ông sau này viết H và y. Cái ông Tây đầu tiên thấy cái hang đẹp quá!!! bèn chỉ hỏi người địa phương. Trả lời: Con Gái! ngày nay vẫn còn hang con gái đó! Quí vị nào không phục thì cứ việc đi tìm ngữ nghĩa của Hòn Gay, Hòn Gai, Hồng Gai…
Địa danh
thứ hai mà tôi giới thiệu ở tuốt phía Hà Giang. Một cái đèo tên là đèo Le, dân
gian giải nghĩa là đèo cao quá, leo đến nơi thì mệt le lưỡi! Nhưng thực ra mấy
ông Tây khoái trời trong gió mát nơi đây nên đặt tên là Bel Air, rồi người dân gọi tắt là đèo Le!
Một con
sông chảy từ Tuyên Quang qua Vĩnh Yên đổ vào sông Hồng có tên là Phó Đáy. Tôi
nghĩ không thể có sông Đáy ở phía nam rồi sông này là Phó Đáy! Hai con sông này
chẳng dính dáng gì tới nhau. Tôi nghĩ Phó Đáy là Pơ Đai, là lúa theo tiếng Thái.
Sông Phó Đáy, Đáy và Đuống đều là vết tích xa xưa của Thái, Mường. Cái
Địa danh Cổ Bi ở vùng Gia Lâm, Bắc Ninh, nơi tràn ngập vết tích của bộ lạc Trâu,
Tlâu, Dâu… Tôi nghĩ Cổ Bi chính là Cà Bây, là con
Trâu!
Các cửa
sông có tên là Hàn, Cờn, Càn, Thái Khang, Thái Cần, Sa gân, Sài Côn, Sài Quang,
Thầy Quơn rải rác từ Móng Cái tới Cà Mau, tôi nghĩ đừng tìm ông thầy nào tên
Quang, tên Quơn cho mất công!
Từ Ninh
Bình cho tới Quảng Bình có những tên Lòn, luồn, Ròn… không phải là cái hang
phải đi luồn mãi trong đó. Người
miền Thanh Hóa không phát âm là lòn mà phát âm rõ ràng là cái… Yoni! Còn cái
ông Quảng Bình thì Ròn, Ròn Mạ…! phải chăng tượng trưng cho bà mẹ Vĩ Đại!!!
Những tên Thầy, Sài, Sãi… tôi nghĩ chỉ là một (núi
Thầy là núi Sài Sơn). Một số học giả Âu Mỹ nói rằng từ Việt Nam tới Đông Nam Á,
xưa có thịnh hành những Phật Phái Sãi, Vãi… Những ông Sư này quyền kiêm thế tục
như các sư Miên sau này! Tôi thấy rằng ngay tại Bắc Việt xưa các sãi cũng ăn
thịt và lấy vợ, và các chợ thời đó ở ngay trước cửa chùa. Cái chợ Viềng đông
đúc và vui… nhộn (!) là một ví dụ:
Em là con gái kẻ Từ
Có chồng bỏ của theo Sư chùa Viềng
Đói ăn thịc chó nấu riềng…
Sãi và Vãi thời đó cũng như một thứ Phù Thuỷ (Pháp sư
Từ Lộ, Minh Không…!) có nhiều phép lạ và mọi người phải nghe theo. Bà Vãi ở Bà
Rịa là một ví dụ. Núi Thị Vãi, sông Thị Vãi chứ không phải Thị Vải. Sách ghi
rằng sông Nữ Tăng! Truyền thuyết nói rằng ông Trịnh có tình nghĩa với bà
Vãi (Phải chăng con cháu ông Trịnh Thiên Tứ sau này viết nên truyện ông Thiên
Tứ lấy bà Xuân Tự!)
Giang Tây Quân. Ở Ninh Bình người ta đã thấy những viên
gạch khắc: Giang Tây Quân. Người ta giải thích rằng có đội quân Giang Tây đời
Đướng đã ở đó và nung những viên gạch ấy. Thực ra thì cuối Lê người ta đã lập
đền thờ vua Đinh và không hiểu người ta mua gạch Giang Tây hay ghi đại gạch
Giang tây cho oai (!) nên ghi là Giang Tây chuyên (gạch). Bởi chữ Chuyên và
chữa Quân giống nhau nên có những người thợ làm gạch ghi là Giang Tây Quân (?).
Không hiểu sao gần đó có những viên gạch Giang Tây chuyên, Đại Việt Quốc Quân
thành chuyên mà vẫn còn những học giả giải thích Giang Tây Quân (!!!)
Ở Quảng Bình có động Phong Nha, tôi nghĩ nó không phải
răng của gió hay gió có răng... Mà nó chính là động Non Nước: Phong = Phnom;
Nha = ya, ea!
Ở Huế có địa danh Vĩ Dạ, tôi nghĩ không phải là đêm vĩ
đại hay đêm có đuôi... Mà nó là Vijaya của Chiêm Thành đấy bởi chung quanh Huế
có rất nhiều thành Lồi. Còn phong tục và ngôn ngữ thì có vết tích rơi rớt của
Chàm và Mẫu hệ. Cũng như ở Bình Định có tháp Dương Long, nó chẳng có nghĩa
tiếng Việt hay Hán Tự, nó phải là Yang Plong có tháp ở Bình Định và Daklak.
Có những tên nghe lạ tai quá đi chứ: Mũi Ba tăng ghềnh
hay Pa tăng ghềnh. Chỉ vì ở đó có ba làng bắt đầu bàng chữ An nên dân gọi là ba
làng An. Người Pháp tới phiên âm là balangan rồi chử l viết tháu ra chữ t :
batangan, rồi sau này người Việt phiên âm ngược lại là Ba Tăng Găng, Ba Tăng
Ghềnh mà tìm hoài chẳng thấy có ghềnh thác nào cả.
Cũng ở giữa miền Trung này có sự phiên âm Việt, Pháp
Hoa lung tung cả: Láng cò hay làng cò biến thành Lăng Cô, Châu mới biến thành
Chu Mãi, Chu Mei, Châu May, Chân Mây. Phường mới biến thành Phương Mai!
Ở miền Trung cũng như Hà Tiên có vũng Nạy, mũi Nạy.
Nạy hay Nay tiếng Miên có nghĩa là lớn thôi! Sao nỡ phiên âm là mũi Nai rồi Hán
hóa là Lộc Trĩ!
Cũng như tiếng Miên Thom là lớn, nhưng các cụ phiêm âm
thom là thơm tho rồi dịch ra Hán là Hương. Hương Úc chỉ là vũng Lớn thôi! Vũng
Thơm ở Sóc Trang, bãi Thơm ở bắc Phú Quốc chỉ là những vũng Lớn, bãi Lớn của
người Miên. Tôi tức cười nhất là vũng lớn ở nam Phú Yên, chẳng biết có tên Việt
hay tên Hán tự gì không? Nhưng người Pháp thấy vũng lớn thì ghi là Baie Gros(se)
rồi bây giờ nó thành vũng Rô của người Việt chứ chẳng có con cá rô nào cả.
Phú Yên xưa, họ Nguyễn đặt một chức quan võ, sau này
chia tỉnh rồi thì Phú Yên vẫn cứ là Phú Yên Đạo hoài. Cái Đạo này quản rất
nhiều huyện và thuộc của miền núi, trong đó có cái Bun Ma rất lừng lẫy nhưng
chịu lệ thuộc. Nhà Nguyễn rất khoái cái Bun Ma Thuộc này vì cống phẩm quá sung!
Ở Phú Yên và Phan Thiết có mũi kê gà! Người ta giải
thích là khe gà hoặc khu rừng bên trong có nhiều gà rừng. Đâu có ai biết là Đô
Đốc hải quân Kergaradec đã cho lập ở đó những cái đèn hải đăng. Rồi Kerga … hóa
thành Kê Gà (Hai cái mũi này đều có tên là mũi điện)
Ông Thiên Hộ Dương (quê ở Bình Định, xứ thập tháp)
đánh Pháp ở phía nam Sài gòn, thua chạy xuống Gò Công (Nơi đây có một cái tháp
trắng = Bạch Tháp). Thấy không thể tiếp tục đánh Pháp được, ông lên thuyền vượt
biển chạy về Thập Tháp (Bình Định có nhiều tháp nên gọi là xứ Thập Tháp), nhưng
ông bị chết đuối ở vùng biển Thần Mẫu (Phan Thiết). Còn cái tháp ở Đồng Tháp
Mười (tên sau này, đặt một cách ngớ ngẩn) là người ta mới phát hiện gần 80 năm
sau!
Núi Bà Đinh ở Tây Ninh, tên xưa của nó là Chưng bà
Đêng là vua bà Đêng chứ không có bà Đinh bà Đen nào tên là Lí thị Thiên Hương.
Một phụ lưu của sông Sàigòn, sách ghi là rạch Thị Tính.
Nhưng dân gian gọi là rạch bà Toán, bà Táng (mãi tới 1960 mà học sinh của tôi
còn nói: Hôm nay có giờ táng). Cũng có người (theo sách Pháp chăng) gọi là rạch
bà Tang!
Ở Tân An
có rạch Châu Phê. Người ta giải thích rằng chúa Nguyễn châu phê cho Nguyễn cửu
Vân nguyên con rạch và ruộng hai bên rạch (nhưng đời Nguyễn mới có châu phê
bằng son đỏ, chứ Chúa Nguyễn chưa có). Thực ra thì đó là đất của một ông Châu
Phê (Chaufée) người miên. Người Pháp nói rằng Chaufée là một chức quan lớn
trưởng Phum, trưởng Sóc, gần bằng chức Ốc Nha.
Sông Cổ
Chiên: Chẳng biết người ta ghi theo Pháp hay Việt không bỏ dấu nên nhiều người
giải thích là có cái chiêng đồng rất lớn chìm ở đó mà không chịu đọc sử ghi
rành rành là sông Cổ Chiến! Nơi đây
người Việt và người Miên đánh nhau nhiều trận khá lớn. Nhất là cái đồn Thiết
Thằng. Đồn Thiết Thằng lập ở một sóc Miên khá mạnh. Nhưng người ta cứ ngây thơ
rằng người Miên giăng xích sắt ngang sông Tiền (?) để ngăn người Việt. Trong
Đại Nam Nhất Thống Chí ghi nơi đó là Thiết Ấp.
Nhà lồng, chợ nhà lồng… có lẽ chữ lồng này có từ thời
ta ở tây Nguyên, rồi mang theo vào Nam. Nhà Lồng đây là nhà Rông, nhà Trung Tâm.
Nhiều tỉnh và huyện ở Nam Bộ có chợ Nhà Lồng, không phải chợ nào cũng có cái
chóp như lồng chim đâu!
Rạch Bà Đồ là nơi nhóm của ông Thibado, nhóm bạn chiến
đấu của Quản Lịch sinh tụ không phải bà đồ nho nào đâu! Mà sau này người ta còn
vẽ vời Bà Đỏ, Bà Điều là người yêu của Quản Lịch! Vẽ vời kiểu đó thì thực là
quá bôi bác!
Không có chùa Cây Mai trên đời này! Cái chùa bây giờ
người ta chỉ bào là chùa Cây Mai thì tên cúng Mụ của nó là chùa Gò! Chùa Phụng
Sơn thì ở tuốt trên 338 Nguyễn công Trứ quận I. Người ta ra Huế nhớ về
Mai lĩnh tức là nhớ về núi nhiều cây Mai ở Đại Lãnh, Nha Trang. Lãnh làm sao là
Gò được hở trời!!! Người ta vời trông qua Mai Lãnh nhớ về đất Nam Trung,
là nhớ về các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ! Nhớ Mai Đình là nhớ về Sân Mai, nhớ
nhà! Có học giả giải thích nhớ Mai Đình là nhớ Đình Cây Mai… tức (!) chùa Cây
Mai… nhớ Miền Nam (!)… nhớ Quê hương… yêu nước… vì đã bị Pháp chiếm! Ôi,
sao có thể giải nghĩa Mai Lĩnh, Mai Đình, chùa Cây Mai ở chỗ chùa Gò được hở
trời!!! Mấy ông cai tổng ít học mượn danh Tôn thọ Tường rồi làm thơ bằng cách…
cầu cơ! Nói Tôn thọ Tường vịnh cây mai ở chùa cây Mai như sau:
Đau đớn cho mai cách dưới đèo
Ôi! Lạy Chúa Ở Chợ Lớn có các đèo nào đâu! Ẹ quá! Sách
chữ nho ghi CÂY MAI TỰ phải chăng là ghi cái chùa ở Chợ Lớn! Nếu chùa cây
mai thì chỉ có thể ghi là Mai Hoa Tự hoặc Mai Thụ Tự. Ghi Cây Mai Tự thì chỉ có
thể là Khơ Me Tự. Tóm lại là chẳng có mai mù u, Thuỷ mai, Bạch mai… nào
cả. Một số học giả trước đây đã xác định cây Bạch Mai ở chùa Gò là đem từ Cam
puchia về… khoảng năm 1945. (xin lỗi quí vị, tôi tếu một chút cho đỡ buồn.
Người Pháp tới vùng có gò ở Chợ Lớn. Hỏi: Đây là đâu! người Miên nói: Chey Me.
Người Pháp ghi: Cây Mai)
Cồn Ngao người ta phiên âm Hán tự là Cung Hầu thì dễ
hiểu rồi. Nhưng cái ông cửa Ban Cung, Băng Cung, Băng Côn thì làm phiền ta quá!
May thay, chính ông Trương Vĩnh Kí cho ta hai chữ Thuỷ Cồn. Mặc dù trong Tiếu
Giáo Trình Địa Lí Nam Kỳ ông viết lung tung… chỗ tên này, chỗ tên kia. Nhưng ta
hiểu ra rằng chữ Thuỷ và chữ Băng giống nhau. còn Cồn biến ra Côn, Công, Cung
thì cũng chẳng có chi là lạ. (Cái cồn ở cửa sông lập lờ trên mặt nước, nhưng
nơi này bồi lấp quá nhanh, cái cồn đó trở thành một xã trên đất liền, hai cửa
sông hai bên cồn chỉ còn một, và cái tên Ban Cung biến mất trên thế gian này (xem
thêm Địa Chí Bến Tre).
Chiêm Khê. Nguyễn Hiền Điều tử trận ở Chiêm Khê. Các
vị chỉ đại giếng cây trâm ở Rạch Sỏi, Rạch Giá thì sai quá rồi! Khê không thể
là giếng được, ông trời ạ! Chiêm Khê chỉ có nghĩa là Khe Chàm, Rạch Chàm (của
người Chàm) mà thôi!
Con sông Trẹm hay chèm chẹm chỉ có nghĩa là sông Chàm,
sông Chăm. Ông Tầu lai oái uăm gọi là Chăm Phố! Chăm phố là sông của người Chăm
thì chỉ nhà nho và ông tầu lai hiểu được thôi:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Nhưng một ông trí thúc Tây (Tây Gô Loa thứ thứ thiệt
chứ không phải tây Lai, Tây ba rọi đâu) bỏ một thời gian dài tới đó nghiên cứu
(có lẽ ông ta còn bị kích thích bởi cái Nền Công Chúa gần đó). Ông này bèn kết
luận đó là một «Thị Trấn Trăm Đường». Ông Tây này đúng là đem chuông rè đi đánh
xứ người!
Cũng gần sông Trẹm này có con kinh Cán Gáo. Tôi chẳng
thấy có nhiều cây gáo mà cũng chẳng giống cái cán gáo múc nước! Ngẫm nghĩ
ra thì đúng là mấy ông Tầu vào cửa này để ăn sáp ong và lông chim. Cảng Khẩu:
mấy ông Tiều và Minh Hương phát âm là Cán Gáo!!!
Ở gần núi Ba Thê có cái xã Vọng Thê. Người ta giải
thích rằng đi xa mong ngóng về vợ. Thực ra thì người Pháp đã đóng cái thang bốn
chân, chắc, khỏe. Người ta leo lên cầm cờ phất qua phải qua trái để điều khiển
đào kinh cho thẳng, chứ các cụ không biết đào kinh cho thẳng đâu! Cái thang đó
gọi là Thang Trông, chữ nho là Vọng Thê. Cụ đồ nho nào đó đã lấy tên này làm
tên xã. Ở Tân An cũng có Thang Trông (hình như bên kinh Bảo Định) và người ta
vẫn dùng chữ đó làm tên, chứ không đặt lại cho văn hoa!
Hòn Chông ở Hà Tiên cũng tốn khá nhiều giấy mưc tranh
luận. Người nói hòn chông, người nói hòn chồng. Tôi có chút chữ nho trong bụng
nên xác định với quí vị rằng: Ở Hà Tiên là hòn Chông bởi các cụ viết chữ nho là
Kích Sơn, còn ở Nha Trang là hòn Chồng các cụ viết là Điệp Thạch!
Tôi xin cùng quí vị xuống cuối Cà Mau, phía vịnh Thái
Lan. Nơi có cái địa danh Bay Hap. Người ta giải thích là trúng mùa thì đựng đầy
bảy cái hạp. Nhưng tôi thấy vịnh Thái Lan cũng nhiều Nghêu không thua gì biển
phía Đông, nên nghĩ Bay là Bãi. Còn con Nghêu thì các nhà nho Bắc Việt đọc là
Cáp, nhưng chữ thì viết một bên trùng, một bên hợp (hạp). Vậy người Tiều hay
người Minh Hương gọi con nghêu là con háp hay hạp. Bay Hap đích thị là
Bãi Nghêu rồi!
Tự điển dân gian thì còn nhiều lắm! Nhưng chữ nghĩa
lem nhem của tôi có bấy nhiêu. Chỉ xin quí vị đừng cười!
CDM – 21-11-2015
3 comments:
Cám ơn Thầy cho bài khảo cứu vui về chuyển âm chuyển tiếng.
Tà pín lù Lào Miên Thái Việt Tây Tàu.
Đó là vài trăm năm qua, để em mạn phép suy cho 30 năm tới hay lâu hơn một chút.
Với phong trào cách mạng, để tiết kiệm (?) viết và nói, vài thành phố như Sài Gòn có thể trở thành (=>) Hồ Gòn, Hà Nội => Hồ Nội, Huế => Bác Huế (cho đoàn kết thân mật), Cần Thơ => Hồ Thơ (thơ mộng dễ sợ) và Hà Tiên là Hồ Tiên, wow.
Lâu hơn một chút nữa, có thể Hải Phòng là Mao Phòng và Chợ Lớn là Tạp Lớn.
Còn thị trấn thân yêu của thầy và TH có 3 tên lận : Hồ Giá, Bác Giá hay Vũng Giá.
Trường Phan thanh Giản là trường Hồ Giản; Trường Đoàn thị Điểm, trường Bác Điểm.
Không có gì quí hơn đồng thống nhất thầy nhé.
Em, học trò của thầy trường Nguyễn trung Trực => học Trực (không tệ phải không Thầy).
Học Trực
Ông Bạn Học Trực ơi !
Được gọi như ông nghĩ cũng còn may mắn lắm đó.
Hiện giờ người ta bỏ môn Sử của Việt Nam có lẽ sợ Thiên Triều (vì phần lớn ông cha ta chống xâm lăng Tàu) để chuẩn bị gia nhập đại gia đình Đại Hán ?
Những địa danh mà ông Thầy kể trên biết đâu sẽ bị Hán Hoá như Rạch Giá thành THẠCH GIÁ, Long Xuyên thành LONG THIÊN, Cà Mau thành ĐÀ MAO v.v...của 10, 20, 30 năm sau.
Bạn có biết Sử Tàu nó nói Trận Chiến Thắng của vua Quang Trung là do tụi Minh Hương chạy sang Việt Nam theo Nguyễn Huệ mà Phản Thanh Phục Minh đánh Tôn Sĩ Nghị (lúc đó TSN chỉ có vài ngàn lính quèn). Vậy đó ! Cả thế giới người ta tôn vua Quang Trung là vị tướng tài Bách Chiến Bách Thắng mà tụi Tàu còn dám che dấu sự thật thì chơi với Tàu chỉ có chết chứ đùng nói chuyện bị thương cũng còn đỡ.
Học Trò Dốt Sử
Một bài nghiên cứu thật đặc sắc, nhiều thú vị, càng đọc càng lôi cuốn.Cám ơn ông Thầy đã bỏ công sức ra ngồi gõ.
Post a Comment