Sunday, November 22, 2020

Thầy Còn Nhớ Em Không

 _______________________

Thầy còn nhớ em không?!

Đoàn Xuân Thu

Lau le minh en 02Từ cái thuở đứt phim, mà tui gọi là thuở đứng hình, vết thương vẫn còn rỉ máu. Buồn nào hơn đêm nay, lau lệ mình ên! tui tí toáy làm thơ:

 “Em còn có mẹ già bên đó!/ tiếng thơ buồn như tiếng thở than !

anh đọc thấy : “ …hai hàng lụy nhỏ…có mẹ già biết bỏ cho ai ?!”*

“Anh cũng có mẹ già bên đó! mẹ anh đã nằm dưới mộ sâu.

Cỏ trên mồ chắc xanh thương nhớ/mẹ chắc nhớ anh, nhớ để rầu.

Hai lăm tháng chạp về tảo mộ/hẹn lần, hẹn lửa, hẹn năm sau.

Năm nào cũng vậy, tiền không có/không tiền, không có vé máy bay!

Ngày khánh tận mà anh khánh kiệt/chỉ biết tàng xe đến phi trường.

“Ai về xứ Việt, quê hương đó/cho ké, dùm tôi, nỗi đoạn trường!”

Nỗi đoạn trường, áng chừng em khóc/vẫn còn ai đó vỗ về em,

ai đó làm em không khóc nữa/nỗi buồn nhớ mẹ, chắc rồi quên.

Anh nhớ mẹ, rồi anh cũng khóc/ Melbourne buồn, anh lau lệ mình ên!

Cách đây mấy bữa trên Facebook, có một em từ bên Little Saigon, Orange County. Quận Cam bên Mỹ gọi qua, xưng tên là ‘Chi Lan’, tức cành hoa lan trắng, rồi hỏi: “Thầy còn nhớ em không?”

Ủa tui đã ‘giã’ trường xưa theo tiếng gọi lên đường, vượt biên tìm tự do mấy chục năm nay; đã rời xa phấn bảng quá xá là lâu mà đột nhiên bây giờ lại có người gợi nhớ cái thuở ‘giáo chức, dứt cháo’; ‘thầy giáo tháo giày’ đi chân đất vậy cà?

Nói nào ngay, em học trò năm cũ nầy, phải kể thêm một vài kỷ niệm nào đó, tui mới nhớ được. Chẳng hạn như Thầy đã từng đến nhậu với Tía em, ăn gỏi khô cá sặc với xoài thanh ca; ăn canh chua bông sua đũa do chính tay chị em nấu là tui nhớ liền hè.

Chớ vài ngàn em mà đứa nào mình cũng nói nhớ hết ráo là mình nói láo. Nói láo với ai còn có thể châm chước được; chớ với học trò cũ gọi mình là ‘Thầy’, dẫu mình đã nghỉ dạy lâu, thì đâu có được hè!

Thay con nho 01“Nhà em ở Cù lao Quốc Gia đó!” Nghe tới Cù lao Quốc Gia là kỷ niệm ngày xưa ta bé ta vui… lại hiện về… để giờ xa quê lại buồn trong kỷ niệm.

Cù lao, cái địa danh hồi xưa bà con mình xài hà rầm. Như Cù lao Ông Chưởng, (Bao phen quạ nói với diều/ Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm), Cù lao Rồng, Cù lao An Hóa, Cù lao Bảo, Cù lao Minh trên sông Tiền. Còn trên sông Hậu là Cù lao Dung và biết bao cơ man Cù lao khác.

Bà con mình ai cũng biết dòng sông Mekong phát xuất từ chỗ cao thiệt là cao, trên Cao nguyên Tây Tạng vượt qua qua biết bao nhiêu gềnh thác. Cuối cùng bình độ của dòng sông gần ngang bằng mực nước biển; nước sông phải rề rề chậm lại; kết quả bùn lắng tụ lâu ngày, gom lại nổi lên ở giữa sông. Đất ấy bà con mình gọi là đất Cù lao.

Bây giờ thiên hạ ít xài chữ Cù lao như hồi xưa mà chỉ xài chữ cồn không hè.

Còn cái tên Quốc Gia là vầy: Hồi thời chiến tranh, chia làm hai phe: phe nó là Việt Cộng; phe mình là Quốc Gia.

Cù lao Quốc Gia rõ ràng là của phe mình rất an ninh. Không phải là vùng xôi đậu, ngày Quốc Gia đêm VC. Ban ngày trốn, ngủ hay nhậu trong hầm, tối bò ra bắn cắc bùm phá đám lương dân.

Nếu cả miền Nam mình không có cái bọn ‘cà khịa’ theo CS nầy, thì đất nước thanh bình, dân tình chí thú mần ăn, ắt là dễ thở, phẻ re!

Cái Cù lao Quốc Gia nầy nhỏ chút tẳn hơn 1000 mẫu lại bốn bề sông nước nên VC không dám bò về vì sợ lính hành quân, hổng biết chạy đi đâu để chém vè. Lỡ bị lính rượt, hổng lẽ nhẩy cái tùm lội xuống sông thì Hà Bá nó rước.

Cách đây khoảng 150 năm lúc đầu, mặt cồn rất thấp, chỉ toàn bãi bùn, cỏ dại, dây leo, một số loài cây tạp, cây bần cùng thú hoang và chim muông sinh sống.

Vào cuối thể kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu cai quản, đặt tên là cồn Công Điền (tức vùng đất công), thuộc địa phận làng Kế Sách, tổng Định Khánh, tỉnh Sóc Trăng.

Đến 50 của thế kỷ XX, phù sa tiếp tục bồi lắng và nổi lên một vạt cồn mới, cặp sát đuôi cồn Công Điền, cách nhau bởi con rạch nhỏ, người dân gọi tên là Cồn Bùn.

Đầu cồn hướng về phía Cần Thơ, đuôi cồn hướng ra biển Đông, tiếp giáp với huyện Cù Lao Dung, cách đầu cù lao khoảng 1km, cách bờ biển Đông khoảng 40km, cách Sóc Trăng khoảng 25km.

Thay con nho 02

Sau nầy VC kỵ chữ Quốc Gia, nên đổi tên thành cồn Mỹ Phước. Theo không ảnh, trên cao nhìn xuống, cồn có hình trái xoan với hai đầu thắt lại, đoạn giữa phình ra với chiều rộng trên 500m. dài khoảng 5km, được bao bọc bằng những thân đê vững chãi, và đường xá trên cồn đều đã được trải bê tông.

Vào khoảng năm 1946, những người đầu tiên đặt chân lên cồn khai phá đất hoang, bao bờ trồng rẫy trên đất cồn phì nhiêu màu mỡ trên khoảng 1020 hecta. Làm ăn khấm khá nên dân kéo đến khai hoang, sinh cơ, lập nghiệp ngày một đông hơn lên tới 400 gia đình khoảng 2000 ngàn người.

Từ việc trồng rẫy lúc ban đầu, bà con bắt đầu trồng thêm các loại cây ăn trái như: chuối, dừa, cam quýt, bưởi, rồi sau đó thêm xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, sa-pô-chê, mãng cầu, măng cụt. Rồi dùng ghe lớn chở trái cây lên chợ Cầu Ông Lãnh, Sài Gòn bán đắt như tôm tươi.

Bà con mình xứ khác mà muốn đến Cù lao Quốc Gia nầy thăm mấy người đẹp miền sông nước chơi thì đi theo đường nào hè.

Có hai cách: đường lộ và đường sông. Đường lộ phát xuất từ Cần Thơ theo Quốc lộ 4 tới ngã ba An Trạch, quẹo trái chạy thêm 12 cây số là đến quận Kế Sách.

Từ Kế Sách đi thêm 10 cây số nữa đến xã Nhơn Mỹ, rồi đi phà qua sông là đến cồn Mỹ Phước.

Năm chục năm sau, từ Cần Thơ theo quốc lộ Nam Sông Hậu đi khoảng 40km đến Nhơn Mỹ, xuống phà khoảng 10 phút là đến cồn Mỹ Phước.

Còn đường sông, hồi xưa là tui xuống đò Ngọc Diệp ở bến Ninh Kiều theo dòng sông Hậu khoảng 50 cây số là đến cồn Mỹ Phước.

Ngồi trên mui đò trời nước bao la chừng 4 tiếng đồng hồ là anh về quê em để nhậu chơi với Tía của em.

***

Sau tháng Tư, năm 75, nhiều thầy giáo của phe mình rất là chịu chơi, chơi tới cùng, dứt áo ra đi mà không hề ngoảnh lại. Có phụ huynh hỏi thầy: “Bộ không được lưu dung hay sao mà Thầy bỏ nghề giáo?” “Không tôi tự nguyện! Tôi thà ‘mất dạy’ để giữ cái tư cách nghề giáo của mình, chớ không chỉ vì cái đồng lương chết đói, tháng được 60 đồng, gạo 13 kí, thịt mỡ nửa ký… để bán rẻ cái lương tâm chức nghiệp của mình.”

Nói nào ngay tui cũng muốn hành xử một cách anh hùng mã thượng như bậc đàn anh đáng kính nầy nhưng không được. Thầy còn có ruộng đất để về cày, còn tui một cục đất chọi chim cũng không… thì nghỉ dạy rồi mình biết về đâu, làm gì mà sống. Đành chịu nhục của người thất thế rán ‘đu’ được ngày nào hay ngày đó.

Dẫu vậy nhưng đâu có được yên thân nhứt là mầy thầy giáo đã từng đi lính, là sĩ quan biệt phái hay mấy cô có chồng là Sĩ quan đang bị ở tù cải tạo…

Sinh viên đang học ở trường Luật hay văn Khoa gì đó bị lùa qua Sư Phạm học sáu tháng để về thay thế các thầy cô cũ.

quan_ben_duong-1Trong số nầy, tui biết chắc là sẽ tới phiên mình. Cho đến một hôm: Sáng bước vô trường, nghe bị đuổi/ về nhà lúi húi xếp hành trang/ bài thơ tình cũ… quần áo cũ/ hết thời dạy giáo… giờ lang thang.

Đến quán em quen, để trả tiền/ “anh bị đuổi rồi, cuốn nóp thôi”/ em buồn, con mắt rưng rưng nói/ “hia giáo bỏ đi… chợ chắc buồn.”

Em hỏi làm sao anh bị đuổi?/ Vì anh là giáo ngụy em ơi! Chỉ vì tin bạn mà bạn phản/ bởi tại Lý Thông, bởi thói đời.

Tiệc tiễn hành anh, em thết đãi/ cá sặc rằn khô, xoài thanh ca rắc chút đường, thêm vài lát ớt/ “uống đã đời đi! lắm đắng cay.”

Nửa khuya thức giấc đò Ngọc Diệp/ tình ta như chiếc lá xuôi dòng, “thức dậy đi anh… về cho kịp!/ Lỡ nhịp tình ta… sông cách sông.

Footscray cũng có khô cá sặc/ đầy dẫy, ê hề xoài thanh ca, cũng là món gỏi… nhưng không phải/ quay quắt chiều xưa tiệc tiễn hành.

Melbourne đất khách trời lưu lạc/ Kế Sách… quê mình nhớ biết bao,

Thương người con gái Tiều lai ấy/ ước gì mình gặp lại kiếp sau.

dem-gia-tu-ke-sach-1Sau ngần ấy năm tha hương, đêm nay đốt lò hương cũ, sao nhớ vô cùng cái món gỏi khô cá sặc của ngày xưa ấy.

Cá sặc là cá nước ngọt. Mùa nước nổi bắt ăn không hết bèn ướp nước muối làm khô. Khoái nhứt là nướng xé ra để ăn với cơm hơi nhão.

Nhưng gỏi khô cá sặc và xoài thanh ca là món nhậu dân dã không thể nào tìm thấy đâu bán trên toàn nước Úc.

Trái xoài thanh ca dài, đầu hơi cong, còn có tên là xoài mút (vì khi chín ăn chỉ cần lột vỏ và mút). Khô cá sặc vốn của nhà nghèo, của vùng quê xa ngai ngái. Cộng hưởng với trái xoài xanh, thêm hành tím, tỏi, ớt, ngò gai.

Nước trộn gỏi là nước mắm với đường, tỏi đập dập, ớt bỏ hạt, bằm nhỏ. Con khô cá sặc nướng trên bếp than đến khi vàng và thơm. Cá chín, gỡ lấy phần thịt, bỏ xương, xé ra từng miếng nhỏ. Ngò gai cắt sợi, trộn đều với xoài, cà rốt và hành. Bày gỏi lên đĩa, rắc khô cá sặc lên. Trộn đều rồi gắp một đũa đưa vô miệng nhai khẽ khàng, nhai nhẹ nhàng nhưng cũng nghe hai hàm răng rít lên rau ráu. Chơi thêm nửa hớp trong ly hột mít rượu nếp sủi bọt tăm em cất tại nhà. Thiệt là quá đã cái tâm can tì phế thận…

Vì biến loạn, phải bỏ xứ đi nhưng cũng như bà con mình, trên cái lưỡi vẫn mang theo cái vị quê hương; và trong tâm hồn cứ vấn vương hoài cái hồn cố thổ.

“Thầy còn nhớ em không? Nhớ nhiều quá xá đi chớ!”

đoàn xuân thu.

melbourn

No comments: