Wednesday, June 8, 2022

TIẾNG HÁT TRÊN DÒNG HƯƠNG GIANG

___________------ 

Qua sự giới thiệu của anh Hàn Thiên Lương 

anh Tam Bách Đinh Bá Tâm đến với Trang Nhà Tha Hương 

bằng một bài viết vô cùng cảm động

Xin chào đón anh Tam Bách Đinh Bá Tâm và trân Trọng giới Thiệu anh đến cùng đọc giả bốn phương

HTTL



Tràng pháo tay nồng nhiệt vang lên khiến Tân thoát khỏi giây phút mơ mộng. Trước mắt anh, các cô ca sĩ  với những chiếc áo dài lộng lẫy sắc màu, những chiếc khăn vành trang trí rực rỡ … đã cúi  đầu chào, rồi ngẩng lên e lệ mỉm cười với khán giả. Các nhạc công với những chiếc áo gấm xanh đậm, cũng lịch sự cúi chào. Tiếng hò Huế hoà với tiếng đàn tranh, đàn nguyệt, đàn nhị, sáo… kèm tiếng gõ phách vang vang trên sông Hương khiến anh ngây ngất, mơ màng. 

            Anh và người bạn Huế, cùng với các  khán giả, đang ngồi trên chiếc thuyền xem trình diễn ca Huế vào một đêm cuối tuần. Suốt buổi  tối, các điệu ca: Nam ai, Nam bình, Hò Mái nhì, Hò đối đáp, Hát chầu văn lần lượt được trình diễn, khi thì đơn ca, khi thì đồng ca. Thuyền đã tắt máy, nhẹ nhàng trôi theo dòng nước, từ Phu Văn Lâu đến cầu Tràng Tiền, đi ngang qua kinh thành Huế cổ kính. Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp lung linh ánh  đèn màu, soi bóng rực rỡ xuống dòng sông êm đềm, vẫn không mất đi  không khí âm thầm, nét cổ kính của một thành phố khép kín, bí ẩn và hấp dẫn của vùng đất thần kinh… Nước róc rách vỗ mạn thuyền,  gió thổi vi vu nhẹ thổi; và xa xa, lấp lánh những chiếc đèn hoa đăng thả dọc bờ sông … tất cả đã khiến anh không biết mình sống thực hay đang trong cõi mộng?

                                                                                                                                                                                                                                  *****

            Đã hơn năm mươi năm rồi, kể từ ngày Tân đi xa vùng đất thần kinh. Hơn nửa thế kỷ rồi, anh mới trở lại để ngắm dòng sông êm đềm, trở lại để nghe tiếng hò Huế, vang vọng lúc trầm lúc bổng giọng ca mượt mà của những cô gái Huế, trên chiếc thuyền nhẹ nhàng êm ả trôi dưới ánh đèn mờ ảo như ánh trăng thu. Trong suốt buổi trình diễn ca Huế hôm ấy, anh để ý thấy một cô gái nhỏ nhắn, trắng trẻo, khuôn mặt trái soan xinh đẹp với ánh mắt buồn rười rượi. Đôi mắt ấy, sống mũi ấy…như gợi từ tiềm thức xa xăm của Tân một hình bóng quen thuộc… một hình bóng mà mỗi khi hiện lên trong trí nhớ anh, làm sống lại trong tim anh một cảm giác nao nao buồn. Khi cô gái hát xong, cúi đầu chào khán giả, Tân nói nhỏ với người bạn Huế của anh:

        - Cô ca sĩ này hát hay quá, anh thấy không? Mình có thể mời cô ấy đi ăn tối để làm quen được không anh? Tôi trông cô ta thật quen, giống một người bạn gái của tôi ngày xưa anh ạ…

      Cuối buổi hát, người bạn đi tìm gặp cô gái. Anh ta trở lại cho biết cô gái đồng ý. Cô xin hẹn đêm mai sau buổi hát, với lời yêu cầu phải có người  bạn Huế của Tân cùng đi. Hôm sau anh và người bạn “thổ công” miền sông Hương núi Ngự  đến nghe thêm một buổi hát Huế để có dịp làm quen với cô ca sĩ nhỏ bé, xinh đẹp ấy.

 

                                                      *    *    *

            Lần trở về Huế hôm nay là do một tình cờ thú vị.  Cách đó mấy tháng, anh nhận được gói bưu kiện do một người bạn cựu sinh viên Hành Chánh từ Michigan gởi đến. Trong đó có lá thư và vài món quà nhờ Tân chuyển về cho mẹ anh ở Huế. Trong lá thư gởi cho Tân, người bạn giới thiệu một chuyến đi du lịch vài nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Thế là Tân liên lạc ngay với hãng du lịch để mua vé lên đường.

            Sau khi đoàn du lịch thăm viếng các nước Singapore, Malaysia…máy bay đưa họ đến Việt Nam, quê hương cũ mà Tân đã từ lâu xa cách. Theo chương trình, chuyến du lịch tạm dừng ở Sài Gòn vài ngày, rồi phái đoàn lên xe ca đi thăm vài thành phố lớn Miền Tây. Sau đó, theo quốc lộ 1 đến các thành phố Miền Trung như Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Thanh Hoá ( bãi biển Sầm Sơn), Hải Phòng (bãi biển Đồ Sơn), Hà Nội…Tuy nhiên, khi đến Huế Tân dừng lại không theo đoàn du lịch đi tiếp ra Bắc. Anh  hẹn ngày giờ sẽ gặp lại đoàn du lịch tại Sài Gòn để cùng trở về Mỹ.

            Với Tân, những tháng năm u tối sau năm 1975 vẫn còn lưu lại những vết hằn đậm nét trong lòng anh. Chuyến đi “cải tạo” biệt xứ ra đất Bắc cuối năm 1976 bằng tàu thủy, bị nhốt dưới gầm tàu, bị đối xử như những người “nô lệ Phi Châu” thuở xa xưa bị đưa đến đất Mỹ. Sau đó trên chiếc xe Isuzu ngụy trang bằng màn che trướng phủ, chất đầy “tù cải tạo Miền Nam”,  từ cảng Hải Phòng về nhà tù xứ Thanh vào ban đêm, anh đã chứng kiến những  tiếng la hét phẫn nộ đầy kịch tính của những người dân bị nhồi nhét chủ nghĩa căm thù. Và rồi những năm sau đó, bị đối xử khinh bạc, hận thù trong trại tập trung Thanh Cẩm… Tất cả đã khiến anh không bao giờ nghĩ đến một chuyến du lịch quê hương tại vùng đất bên kia vỹ tuyến 17! 

 

      Chia tay với đoàn du lịch xong, Tân tìm đến trao món quà và lá thư cho gia đình người bạn đồng môn ở Michigan đã nhờ anh mang về. Người anh cả của gia đình “thế gia vọng tộc” họ Tôn thất ấy vẫn còn ở ngôi nhà của đại gia đình,  cùng vợ con phụng dưỡng mẹ già. Đó là người bạn xứ Huế duy nhất của Tân ở đất thần kinh này. Không thuyết phục được người bạn hải ngoại tạm cư ngụ tại nhà mình, anh ta đưa Tân đến thuê một khách sạn nhỏ, nguyên là một biệt thự xưa, chủ cũ đã bỏ đi nước ngoài.

            Khách sạn nằm gần bờ sông Hương, để hàng ngày anh có thể ngắm vẻ đẹp của giòng sông êm đềm vào buổi sớm tinh sương, ngắm ánh đèn cầu Tràng Tiền rực rỡ vào đêm cuối tuần, nghe tiếng hò Huế vang vang trên khúc sông vắng lặng buổi chiều tối.  Phía trước sân khách sạn có giàn hoa ti-gôn, có hàng rào hoa tím nên thơ bao quanh, và đặc biệt có cây ngọc lan trồng ở góc sân toả mùi thơm nhẹ nhàng quyến rũ. Năm mươi năm trước, gia đình Tân thuê một ngôi nhà ở đường Ngô Quyền, bên hữu ngạn Hương giang. Ở đó  cũng có một  cây hoa ngọc lan thơm ngát như thế…

 

.           Ngôi nhà với cây hoa nhiều kỷ niệm xưa, nay không còn nữa. Hôm vừa du lịch đến Huế, anh tìm lại căn nhà cũ, nhưng người ta đã phá hủy ngôi nhà lẫn cây cối chung quanh, làm mất luôn kỷ niệm dấu yêu ngày cũ của anh.

                                                           

                                                                        *****

            Thuở  ấy, anh đang học năm cuối Trung học đệ  nhất cấp tại trường Nguyễn Tri phương. Và trong một lớp luyện thi dạy môn Toán và Pháp văn, anh làm quen với một nữ sinh Đồng Khánh tên Ánh. Ban đầu chỉ là bạn học, trao đổi nhau việc học hành. Dần dần, tình cảm hai người đậm đà, vượt quá quan hệ “giấy bút thơm tho tuổi học trò”. Ngoài giờ học, cuối tuần họ hò hẹn đạp xe đi chơi ở chùa Thiên Mụ, ở Lăng Tự Đức;  hoặc ngồi bên nhau bên bờ sông Hương, nghe tiếng hò Huế vang vang từ đài Phát thanh , chập chờn trên dòng nước sông Hương những buổi chiều êm ả, vang mãi đến bến Văn Lâu, nơi hai người đang ngồi…

     Tân thi đỗ xong bằng Trung học,  chuẩn bị di chuyển vào Sài gòn cùng gia đình. Và khi biết tin,  Ánh đến nhà thăm anh lần cuối, với một gương mặt buồn rười rượi. Tân hỏi lý do, nàng đáp với giọng sũng nước mắt:

     - Ánh thi …rớt rồi anh!

      Tân anh ủi nàng:

     -Lỡ rớt kỳ đầu, Ánh cố gắng ôn bài để thi kỳ hai. Rồi sẽ đậu, có chi mà buồn?

      Nàng nhìn anh qua làn nước mắt:

      - Tân vào Sài gòn chớ “có trăng phụ đèn”, đừng quên người bạn gái quê mùa xứ Huế này anh hỉ ?

      Tân nhìn nàng trầm ngâm, phân vân trong lòng:  nàng khóc vì thi rớt  hay buồn vì hai người sắp xa nhau ? 

Khi Ánh chia tay ra về, Tân với tay trên cây ngọc lan trước ngõ hái một chùm bông hoa trao cho nàng.  Ánh ngắt một cánh hoa lan, cài trên mái tóc thề,  rồi quay hỏi anh bằng một giọng ngây thơ, ánh mắt lưu luyến nhìn anh:

          - Tân xem Ánh cài hoa trên tóc có giống cô gái trong bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” không anh? 

            Tân sực nhớ bài thơ này của thi sĩ Kiên Giang sáng tác một năm trước đó (1958),  đã nhanh chóng lan truyền  từ trong Nam ra Huế và được các cô nữ sinh chép lại, chuyền tay cho nhau. Đã một lần ngồi bên nhau trên bờ sông Hương, Ánh đã ngâm cho anh nghe bằng một giọng Huế thanh tao và thật buồn…

            Vào Sài gòn, Tân vội viết lá thư đầu tiên cho Ánh, khuyên nàng cố gắng ôn bài vở để chuẩn bị thi kỳ 2, và gởi đến nàng tâm tình nhớ Huế đẹp và mơ, đến người bạn gái  có mái tóc thề óng ả, đôi mắt trong sáng và nụ cười tươi đẹp…Ánh cũng gởi những lá thư, đều đều hàng tuần, rồi hàng tháng… Riêng Tân, sau lá thư đầu tiên đó, vì bận bịu với cuộc sống mới , với trường lớp mới…anh cứ để ngày tháng trôi đi mà chẳng viết thêm giòng nào cho “người bạn gái quê mùa xứ Huế” đó!   Để rồi hai năm sau, anh nhận được lá thư cuối cùng của nàng, trong đó chứa đựng những lời lẽ trách móc, kèm theo cánh hoa ngọc lan đã khô kéo được ép kỹ trong tờ thư. Phải chăng đó dấu hiệu “trả lại tình xưa” của người bạn gái xứ Huế lãng mạn nhưng chung tình của anh? Vài năm sau, một người bạn học cũ từ Huế vào Sài gòn, ghé thăm anh cho biết nàng Ánh đã đi lấy chồng. Từ đó, Tân bặt luôn tin tức của nàng…

 

                                                                   *    *    *

       Năm mươi năm, thời gian vô tình trôi đi như nước chảy qua cầu! Tân muốn chôn chặt vào dĩ vãng một chuyện tình thuở học trò, hồn nhiên, thơ ngây nhưng tha thiết …Rồi do một tình cờ, về lại xứ Huế lần này, anh bắt gặp hình ảnh người xưa qua gương mặt cô gái trẻ  trong buổi đi nghe hát Huế dưới sông Hương. Tâm tình anh bỗng nhiên xáo trộn, như viên đá ném xuống sông, đã làm quấy động giòng nước vốn yên tĩnh, trong đó đã từng che dấu một kỷ niệm đẹp ! Đêm nay, theo lời hứa, người bạn Huế  đến đón anh đi xem hát trên sông Hương một lần nữa, và cũng để anh tìm lại hình bóng kỷ niệm xưa.

       Hai người đến nơi khoảng bảy giờ tối. Buổi ca Huế bắt đầu với những ca sĩ hôm qua, nhưng các bài ca trình bày có thay đổi.  Sau đó Tân thấy lại cô ca sĩ nhỏ bé xinh đẹp, có nét mặt phảng phất bóng dáng người tình cũ của anh . Cô trình bày một bài Hò Mái Nhì Huế, với giọng ca réo rắt: 

               

            Ơ…Ơ…Chiều chiều trước bến Văn Lâu                              

            Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?                                              

            Ai thương, ai cảm, ai nhớ ai trông?                                                   

            Thuyền ai thấp thoáng bên sông?                                         

            Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non…                                                                                                                                                             (Ưng Bình Thúc Giạ Thị)

 

     Những câu ca được lập lại nhiều lần, giọng ca kéo dài ngân vang, khi trầm, khi bổng…hoà lẫn tiếng đàn tranh, đàn nhị, tiếng sáo… buồn não nuột. Buồn như nỗi lòng người thiếu nữ than trách kẻ bạc tình đã đi xa, nàng cô đơn trông ngóng mỗi chiều trên bờ sông Hương. Buồn như nỗi lòng của Công chúa Huyền Trân đời Lý, khi giã biệt  hoàng gia, chia tay người yêu - viên tướng họ Trần - để về làm vợ vua Chiêm Chế Mân, với tâm sự u buồn, chạnh lòng nhớ non nhớ nước!

          Sau buổi nghe ca Huế, Tân cùng người bạn xứ thần kinh đến mời cô ca sĩ đi ăn tối. Các nhà hàng đã đóng cửa, duy chỉ còn một vài chiếc quán còn đón khách “ăn đêm”. Đêm xứ Huế thật buồn và vắng lặng. Ba người đến một chiếc quán nhỏ, với ánh đèn leo lét trong đêm, giống những chiếc quán bán hũ hiếu cho khách ăn khuya ở Chợ Cũ Sài gòn. Họ ngồi trên chiếc bàn tròn đặt ngoài trời . Ba tô bún bò Huế thật nóng, thật cay… khiến cho khách đi chơi ban đêm, các nghệ sĩ  tan hát, về ghé qua đây cảm thấy ấm lòng.

            Tân hỏi sơ qua về cuộc sống, về gia cảnh  của cô ca sĩ hát Huế…Nàng cho biết đã mất người cha lúc cô còn bé. Mẹ nàng không tục huyền và đã ở vậy nuôi con - đứa con duy nhất  là nàng. Nay thì Mẹ đã bị mù loà, sống cậy vào đứa con gái hiếu thảo. Nàng đi hát là do sở thích, và chỉ làm công việc này vào ban đêm, nhất là những đêm cuối tuần. Ban ngày nàng làm cô giáo giữ trẻ để có đủ tiền cho cuộc sống hai mẹ con.

          Tân im lặng ngồi nghe, cảm thấy cảm thương cho nàng và người mẹ của cô ca sĩ trẻ ấy. Anh đề nghị nàng cho địa chỉ để đến thăm, và ngỏ ý muốn tặng chút quà cho mẹ và người con chí hiếu. Chí hiếu như nữ ca sĩ Thanh Thúy lúc ở độ tuổi trăng tròn đã đi hát ở các phòng trà Sài gòn để nuôi người mẹ lâm trọng bệnh và các em còn nhỏ! Cô ca sĩ hát Huế ghi địa chỉ nhà nàng và hân hạnh được “bác” ghé đến chơi.

 

                                         *    *    *

            Hôm sau, khi người bạn địa phương Huế chở anh đến nhà cô ca sĩ trẻ, anh bỗng có cảm giác mình đang đi trên “đường xưa lối cũ”. Năm mươi năm mà Huế vẫn không thay đổi bao nhiêu, tuy có vài hoang phế đổi thay. Nhà cô gái ở trong thành nội, bên tả ngạn sông Hương. Người bạn thổ công đất thần kinh không chạy xe qua cầu Trường Tiền, mà dùng cầu mới Phú Xuân để vào thành nội.  Vào năm Mậu Thân (1968), sau khi cầu Trường Tiền bị đặt mìn đánh sập, người ta cho xây cầu này,   bằng bê tông cốt sắt, do hãng Eiffel của Pháp thiết kế và thực hiện…Lúc mới xây xong (1971), cầu được đặt  tên là cầu Sông Hương.

            Sau năm 1975, cầu được chính quyền mới đổi tên là cầu Phú Xuân. Ngày nay, người dân địa phương thường gọi một cách trung dung, ngắn gọn là cầu Mới, với hàm ý là chiếc cầu được xây dựng gần đây nhất, so với cầu Trường Tiền và cầu Dã Viên nổi danh bắc qua giòng Hương Giang.





Thuở xưa, khi chưa có chiếc cầu Mới này, các nữ sinh Đồng Khánh nhà ở bên tả ngạn thường dùng đò ngang sang sông để đến trường học. Sáng, chiều các nữ sinh áo trắng như những cánh bướm, dập dìu qua lại dòng Hương giang bằng hai ngả: trên cầu Trường Tiền bắt qua sông; và trên những chuyến đò  nối liền đôi bờ của sông Hương.

      Xe họ đi qua cửa Thượng Tứ, vẫn chật hẹp cổ kính như xưa. Lá cờ trên kỳ đài Phu Văn Lâu vẫn tung bay trước gió, nhưng hôm nay lá cờ đỏ ối chói chang đã thay cho lá cờ vàng ba sọc đỏ một thời uốn lượn dưới ánh nắng dịu dàng của miền cố đô Huế.

            Khi xe chạy vào thành nội, Tân trông thấy những bờ tường thành còn loang lổ vết đạn từ thời xảy ra cuộc chiến năm 1968. Trải qua bao sương gió nắng mưa, nằm lẫn trong rêu phong hoen ố, dấu vết chiến tranh vẫn còn đó, mặc dù cuộc chiến Quốc Cộng đã kết thúc từ lâu … Người dân cố đô, với bản tính hiền hoà vẫn âm thầm sống cạnh những dấu tích cuộc chiến năm xưa, với những khổ đau của  người con mất cha, vợ mất chồng, trò mất thầy… sau cuộc “thảm sát Tết Mậu thân 1968” xảy ra tại xứ Huế trước đây.

                                                           

            Khi người bạn Huế chở Tân đi qua hồ Tịnh Tâm, kỷ niệm xưa lại hiện về. Khi còn học chung trong lớp luyện thi, những buổi chiều anh từng đạp xe qua đây để thăm Ánh, khi biết nàng bị bệnh. Anh còn nhớ rõ nhà nàng ở đường Đinh Bộ Lĩnh, không xa hồ Tịnh tâm là bao. Đêm sắp xa Huế, Tân dấu mẹ, đạp xe vào thăm nàng lần cuối.      

 

                                                                        ****

                                                                      

            Đêm hôm ấy trời không mưa, thời tiết chưa chưa chớm lạnh  mà sao anh thấy buốt giá trong lòng ; có lẽ vì mai đây anh sẽ phải xa nàng. Anh bước đến bên cửa sổ nhìn vào trong, rồi gõ nhẹ .... Nàng đang cúi xuống học bài, chuẩn bị thi lại kỳ hai. Mái tóc thề buông xõa, che khuất một bên má. Nghe tiếng động, nàng ngẩng lên, mắt mở to ngạc nhiên khi thấy bóngTân ngoài khung cửa . Nàng vội chạy ra, đưa Tân đến ngồi trên chiếc băng gỗ ngoài vườn, giọng thì thào:

            - Khuya rồi, Tân không đợi sáng mai đến chơi được sao? Ba me thấy được, la chết…

     Tân nhìn nàng, không biết trả lời sao cho đúng với tâm trạng của một kẻ si tình còn trong lứa  tuổi học trò. Anh chỉ biết nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của Ánh - cô bạn gái đang đêm  ngồi với bạn trai trong góc vườn nhà mình.    Tân chợt nhớ những câu hát của nhạc sĩ Tô Vũ trong bài “Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa” 

            Mặt nhìn mặt, cầm tay bâng khuâng không nói một câu.                                                             Lời nghẹn ngào, hồn anh như say như ngây, vì đâu?

     Tân cho biết ngày mai, anh và gia đình sẽ vào Nam. Rồi đây anh sẽ  xa Huế, xa nàng, người bạn gái  mến thương của anh. Họ ngồi như thế thật lâu, tay nắm tay, vai  tựa vai, không nói lời nào. Cậu  thanh niên mới lớn, chỉ biết vùi đầu vào sách vở thơm tho, chỉ biết ngắm  những người đẹp xứ Huế xa xa…. Nay được ngồi bên cô bạn gái  yêu thương, nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng, thì còn hạnh phúc nào hơn? Tân ngồi yên như thế thật lâu. Cho đến khi nghe tiếng đồng hồ gõ chuông trong nhà, anh mới đứng lên từ biệt nàng ra về…


                                                           

         Hôm nay, sau năm mươi năm , Tân mới trở lại đường xưa lối cũ.  Khi xe  họ chạy đến đầu đường Đinh Tiên Hoàng,  người bạn “thổ công” xứ Huế quay lại nói với anh:

             -Trước năm 1976, đây là đường Đinh Bộ Lĩnh. Sau đó đổi tên là đường Đinh Tiên Hoàng. Mình sắp tới nơi hẹn rồi đó anh…

            Khi Tân và người đến trước ngôi nhà đã cũ xưa, trong vườn cây cối rậm rạp ,có vẻ thiếu bàn tay chăm sóc, Tân đã thấy cô ca sĩ trẻ hát Huế  đêm qua đang đứng đợi. Cô bé đưa hai người nhà. Trên chiếc ghế dài trong phòng khách, một thiếu phụ đang ngồi nhìn ra như đang trông ngóng ai. Đôi mắt mở to, bất động, với cái nhìn xa vắng. Nghe tiếng bước chân bước vào, người đàn bà đứng tuổi lên tiếng, giọng thấp xuống, nhưng còn thanh tao:

            -Ai đến nhà rứa con?

     Người con gái nhỏ nhẹ đáp:

            -Có ông khách từ nước ngoài về, đến nghe con hát Huế dưới thuyền  đêm qua. Ông nớ xin con địa chỉ và nhờ bạn đưa đến thăm gia đình mình, mạ à!

           Tân đưa mắt nhìn căn nhà vắng vẻ tiêu điều,  nhìn khu vườn ngoài kia, thấy như có một vẻ quen thuộc mơ hồ nơi đây. Anh nhìn lại người đàn bà gầy ốm, mái tóc đã điểm sương, gương mặt phản phất buồn và cam phận. Bất giác anh nhìn đôi môi trể xuống như nũng nịu của nàng, sống mũi cao, gò má hơi nhô lên…Đặc biệt, một nốt ruồi nhỏ dưới khoé mắt của nàng, khiến anh thảng thốt  kêu lên khe khẽ:

            -Ánh! Trời ơi! Không lẽ Ánh Đồng Khánh ngày xưa sao?

Người thiếu phụ ngơ ngác quay mặt về hướng người đàn ông vừa gọi tên nàng:

            -Ai rứa? Ai mà biết tên con gái của tui hỉ?

Cô gái nhìn mẹ, nét mặt chưa hết bàng hoàng ngạc nhiên:

            -Mạ ơi, con quên thưa với mạ. Tối qua ông khách mời con đi ăn và tự giới thiệu là Tân, từ Mỹ về thăm Huế. Ngày xưa ông đã từng ở Huế và biết nhiều về thành nội mạ à!

            Tân định lên tiếng chào người thiếu phụ, nhưng kịp dừng lại. Anh vừa nhận thấy hai giọt nước mắt long lanh từ đôi mắt bất động chảy xuống đôi má gầy của nàng. Nàng để yên như thế, không buồn lau đi, không cần che dấu nỗi đau buồn , có lẽ đã từ lâu lắm rồi…Nàng quay sang nói khẽ với con , có vẻ muốn như nhắn nhủ điều gì với khách:

            -Mạ hơi mệt,! Con ngồi đây tiếp chuyện với khách của con…Nhớ chuyển lời cảm ơn ông Tân đã đến thăm Mạ …Có lẽ không bao giờ Mạ quên ơn đó! Nhưng thôi, Mạ già rồi, không thể ngồi lâu để tiếp chuyện với ông được, xin phép vô trong nằm nghỉ thôi!

            Tân nhìn người thiếu phụ đang đứng dậy, cúi đầu chào khách rồi vịn vai con gái bước vào nhà trong…Dáng vẻ hấp tấp, bối rối như đang lẫn tránh một điều gì khiến đã nàng buồn phiền, không muốn  đối diện.. Không nghi ngờ gì nữa. Ánh đó ! Ánh, cô bạn gái mến thương năm xưa của anh đó! Nhưng hôm  nay nàng lạnh lùng đến thế sao?   Tân thấy quặn đau trong lòng, giá buốt tận con tim. 

            Đã năm mươi năm qua, người bạn tình xưa đã có gia đình, con cái…mà nàng vẫn còn hận anh đến thế sao? Anh đã định lên tiếng chào nàng, nhắc lại chuyện xưa, nhắc lại lý do khiến anh đã không liên lạc với nàng, sau lá thư duy nhất từ Sài gòn đã gởi cho nàng…Nhưng, tất cả đều vô ích. Cánh cửa con tim nàng đã đóng lại. Ngọn  lửa yêu thương đã tắt trong lòng. Có lẽ  Ánh vẫn còn nhớ đến Tân, nhưng nàng đã tế nhị lánh xa cuộc đối thoại với người  bạn tình năm xưa!

        Tân đưa mắt nhìn người bạn Huế đã chở anh đến đây,  ngỏ ý muốn ra về. Anh mở gói giấy có hai món quà, đưa cho cô gái hát Huế;  cô  ca sĩ trẻ vẫn còn bàng hoàng lúng túng vì thái độ bất thường hôm nay của mẹ mình.

    Anh buồn bã lên tiếng:

            -Chú rất tiếc không được tiếp chuyện với mẹ cháu. Đây là chút quà của người từ phương xa về thăm lại Huế, xin được tặng cho Mạ! Còn đây là quà dành cho cháu, cô gái xinh đẹp ca Huế thật hay…Nhớ cháu chuyển lời chú Tân thăm Mạ. Mong Mạ bảo trọng sức khỏe, hãy quên đi những chuyện đau buồn trong quá khứ xa xôi… 

 

                                                           *    *    *

 

            Tân chào từ biệt cô gái chủ nhà, cùng người bạn bước ra cổng. Khi đi qua vườn, anh như thấy lại quang cảnh xưa, hôm sắp xa Huế, anh đã liều lĩnh đến thăm nàng trong đêm khuya… . Anh không nén được tiếng thở dài. Năm mươi năm rồi…Vườn xưa vẫn còn đó, nhưng quang cảnh đã khác xưa. Chiếc băng  gỗ hai người ngồi bên nhau đêm ấy, nay còn đâu nữa? Cây ngọc lan trước căn nhà của Tân ngày xưa khi mới quen nàng cũng đã bị đốn bỏ từ bao giờ! Và cánh hoa anh đã tặng Ánh, đã bị nàng trả lại, kèm theo lá thư “trả lại tình xưa”…Tất cả cũng đã đi vào quên lãng cùng cát bụi thời gian…

         Anh bất giác quay đầu nhìn lại căn  nhà của Ánh. Cô con gái của người tình xưa đứng đó đưa tay vẫy chào từ biệt. Tân như thấy lại nàng Ánh năm xưa…Cô ca sĩ  trẻ hôm nay đã gợi lại hình ảnh của mẹ nàng trong đêm hát Huế . Tiếng hát của nàng vang vang trong đêm trên dòng Hương Giang đã tình cờ đưa đẩy Tân đến căn nhà xưa để gặp lại Ánh, mẹ nàng... Nhưng thật đau xót, thật bẽ bàng! Nàng vẫn giận hờn, không muốn tiếp chuyện với anh nữa...

            Xe chở Tân chạy dưới hàng cây mát mẻ trong thành nội Huế, với hai hang phượng vỹ

 rực rỡ cánh hoa đỏ ối … Anh bất giác nhớ lại những câu hát của nhạc sĩ Minh Kỳ trong bài Thương về xứ Huế :

 

Mây vương khói chiều, xứ Huế đẹp yêu kiều
Ngơ ngẩn lòng du khách những chiều xưa                                

Hương Giang lững lờ, trăng nước vờn đôi bờ
Câu hò vang xa đưa khúc buồn mơ ………

 
Huế đẹp ơi, những chiều lơi
Sông Hương nước chảy,
Vân Lâu bến đợi chờ
Nghe hò rằng đêm vắng biết về mô ?

Huế là thơ, Huế là mơ
Mưa đêm nức nở như câu hát nghẹn lời
Cung đàn buồn lưu luyến nỗi niềm vơi….

 

            Vâng, “Huế là thơ, Huế là mơ”,  muôn đời Huế vẫn đẹp, vẫn yêu kiều! Nhưng sao hôm nay Tân cảm thấy trong lòng vấn vương một mối u hoài nhung nhớ, chen lẫn chút nuối tiếc bẽ bàng?                                                                                                        

Tam Bách Đinh Bá Tâm







No comments: