Thursday, June 9, 2022

NGÀY TRỞ VỀ

 



Tam Bách Đinh Bá Tâm

Hôm ấy, một buổi chiều cuối tuần, Tân tản bộ trên con đường chính khu phố Little Saigon mà tưởng như đang đi trên đường Lê Lợi của Sài Gòn năm xưa- thành phố mà anh giã từ ra đi đã hơn hai mươi năm! Quanh anh, người đi phố toàn là những người gốc Việt. Dọc hai bên đường phố, các bảng hiệu đều có bóng dáng chữ Việt chen lẫn tiếng Anh. Và cơn “nắng quái chiều hôm” của một ngày cuối hạ khiến anh nhớ đến buổi trưa hè oi bức ở Việt Nam. Có thể là một buổi trưa oi ả ở Sài Gòn. Cũng có thể một ngày nắng cháy với gió lào khô khốc ở Quảng Trị. Hay một ngày hè với “cái nóng nung người” ở Thanh Hoá. Đó là những năm tháng anh nằm trong căn nhà tù chật ních, ngột ngạt hơi người nơi thung lũng thượng nguồn sông Mã. Và những ngày hè, anh nghe quanh trại tiếng tre nứa nổ lốp bốp như tiếng bắp rang! Những ngày tháng ấy, chân đạp sỏi đá, đầu đội nắng gió, nhưng chưa bao giờ anh thấy cần một cặp kính mát như hôm nay!

            Khi Tân bước vào cửa hàng mắt kính rộng lớn, mát rượi, khi nắng vẫn chói chang bên ngoài. Anh đưa mắt nhìn lên tủ đựng kính mát- với nhiều hàng hiệu thời trang thật đẹp - định mua một chiếc. Cô bán hàng bước đến, đon đả chào anh:

            -Dạ bác cần chi để cháu giúp ạ?

            Tân đưa mắt nhìn cô gái. Đó là một người đàn bà trẻ ở độ tuổi xuân thì, với khuôn mặt trắng trẻo, mái tóc cụp vào đôi má như kiểu “mái tóc Sylvie” của thập niên 60 thế kỷ trước, đôi mắt hơi xếch, miệng nhỏ, chúm chím đôi môi hồng. Thoạt trông cô như một thiếu nữ Nhật bản trong các bức tranh cổ xứ Phù Tang.

            -Chào cô. Tôi muốn mua một cặp kính mát để đỡ chói nắng khi lái xe…

Theo tay anh chỉ, cô gái mở tủ lấy cặp kính đậm màu đưa cho anh. Trong khi Tân mang thử, phân vân, chọn lựa , cô bán hàng giới thiệu về những cặp mắt kính khác. Giọng nói cô nhẹ nhàng, du dương. Tân nhìn cô, hỏi:



            -Nghe giọng cô nói, hình như cô gốc người Huế?

            Cô gái cười, phô đôi hàm răng trắng bóng:

            -Dạ không!  Cháu không phải là “O gái Huế” đâu! Cháu thuộc “dân cá gỗ” đấy ạ!

            Thấy anh tròn mắt ngạc nhiên vì cách nói chuyện bộc trực của mình, cô gái cười bẽn lẽn nói tiếp:

            -Bố mẹ cháu quê ở Nghệ An, di cư vào Sài Gòn từ năm 1954. Mười lăm năm sau cháu mới ra đời. Nhưng cháu vẫn tự hào về huyền thoại “cá gỗ” của quê hương bố mẹ ngày xưa…




            Nghe cô gái nói chuyện lịch sự, cởi mở, Tân thật vui. Vui như những chiều Thứ Bảy ở quê nhà, nghe giọng hát những ca sĩ trong chương trình “nhạc yêu cầu” của đài phát thanh Sài Gòn năm xưa! Anh nối tiếp câu chuyện cô gái vừa kể về lai lịch của mình:

            -Còn tôi không được hân hạnh làm người dân xứ Nghệ, nhưng tôi đã đi qua đó một lần rồi…

            Cô gái tò mò nhìn Tân:

            -Thế bác đã đi du lịch nơi đó à? Thích quá nhỉ!

            Anh lắc đầu, cười buồn:

            -Tôi chưa bao giờ đi du lịch Miền Bắc. Mà chỉ đi tù ở Miền Bắc thôi. Ngày trở về, xe lửa dừng lại ở ga Vinh, thuộc xứ Nghệ quê cũ của cô đó!

            Cô gái nhìn anh đăm chiêu, đôi mắt rớm lệ:

            -Cậu của cháu cũng đi “cải tạo” ngoài Bắc. Nhưng không được may mắn như bác. Cậu đã mất trong trại trước khi được tha về…

                                                        *        *       *

            Những kỷ niệm đắng cay trong quá khứ tưởng như đã lãng quên, nay lại trở về với Tân. Anh nhớ những năm tháng dài trong trại tù bên bờ sông Mã. Cực nhọc và cay đắng. Nhớ mong và hy vọng! Nhưng ngày trở về, anh chỉ thấy chút vui tươi với nhiều lo lắng, buồn đau ê chề!

            Buổi sáng mùa đông năm ấy, anh và hai mươi lăm bạn đồng cảnh may mắn được tha về. Mới vài  ngày trước, đang khi lao động buổi chiều, toàn trại được lệnh về sớm và tập trung tại sân chính giữa trại. Và khi người cán bộ an ninh đọc tên những “học viên cải tạo được tha”, Tân nghe có tên anh. Sau đó những người này tập trung ở biệt lập trong một phòng khác. Và rồi, những trại viên vừa được tự do này phải hoàn trả quần áo có đóng dấu hai chữ CT cho Trại.  Nhìn những bộ quần áo bạc màu sờn rách - có đóng dấu sau lưng như những con bò nuôi trong trang trại Viễn Tây Hoa kỳ - được trút bỏ lại, chất thành đống trên chiếc chiếu chật hẹp cũ nát, Tân không khỏi đau lòng. Bao năm qua, số phận mình cũng hẩm hiu như những bộ quần áo sờn rách, chiếc chiếu mòn mõi kia sao?!

            Nhận tờ Giấy Ra Trại sậm màu như một tờ nhật trình cũ kỹ thời xưa, Tân bỏ vào chiếc túi xách của mình, cùng chăn mền, quần áo mà bao năm qua chưa bao giờ dùng đến!        Mặt trời đã lên cao, Tân cùng các bạn bước lên chiếc xe vận tải Molotova mà thường ngày chở cá mắm từ chợ huyện lên tiếp tế cho trại. Anh đưa mắt nhìn toàn cảnh trại giam; nhìn xuống vườn rau xanh trước cổng, nơi đó những người bạn tù đang uể oải cào cào xới xới những luống rau mọc đầy cỏ dại… Họ gắng gượng làm việc, chịu đựng đói khổ, một ngày như mọi ngày!  Để rồi kết quả sự nhẫn nhục ấy là một tờ giấy phóng thích; hay sẽ mãi mãi nằm lại trong lòng đất trên đồi Lim trên  bờ sông Mã này?

            Chiếc xe vận tải cũ kỹ của Nga ì ạch lên đèo xuống dốc, hướng về nhà ga Thanh Hoá, chạy trên con đường mà năm năm trước anh và các bạn đồng tù đã từng đi qua, từ cảng Hải Phòng đến trại tù này. Đến nhà ga, mọi người phải chờ đợi chuyến “tàu Thống nhất” đi vào Sài Gòn. Tàu sẽ khởi hành vào buổi chiều. Trước khi chiếc xe Molotova trở về trại trên bờ sông Mã, tên cán bộ công an vẫy chào từ biệt những cựu tù mới được trả tự do. Hắn nhe răng cười nói: “Khi nào có dịp vào Nam công tác, tôi sẽ ghé thăm các anh đấy nhé”!  Tân nhìn nụ cười của tên công an, mà liên tưởng đến vẻ mặt lạnh lùng, ánh mắt soi mói, dữ dằn của những cán bộ trong trại trước đây. Tân tự hỏi: những cái vẫy chào thân mật, nụ cười xã giao, câu nhắn gởi “chân tình” của tên công an trẻ hôm nay…liệu có  xoá được vết hằng cay đắng trong lòng những cựu tù nhân như Tân không? 

            Trong khi chờ đợi chuyến tàu khởi hành, Tân cùng các bạn đi ngắm cảnh thành phố tỉnh lỵ xứ Thanh.  Nhìn những dãy chung cư đồng nhất một màu; rồi bước vào những cửa hàng “bách hoá nhà nước” lèo tèo vài món đồ gia dụng, Tân thấy biểu lộ sự nghèo nàn, lạc hậu của một xứ sở còn yếu kém về kinh tế! Tuy nhiên khi đi trên đường phố, quang cảnh có vẻ khác lạ. Những mái tóc dài kiểu hippy của thập niên 50’; những đôi sabot của thanh thiếu niên Miền Nam trước năm 1975; những kiểu quần áo tân thời đem từ Miền Nam ra…. xuất hiện khắp nơi trên đường phố miền Bắc này.

            Sau ngày đình chiến 1954, nhà thơ Trần Dần từ chiến khu Việ Minh trở về “thủ đô Hà Nội” đã viết:

            …Tôi bước đi,
            Không thấy phố,
            Không thấy nhà
            Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ
….

Và gần ba thập niên sau, trên đường phố Thanh Hoá – nơi chốn mà từ năm 1945 người dân đã thấy “mưa sa trên màu cờ đỏ”, Tân đi giữa đám thanh niên địa phương trang phục “thời thượng” kiểu Sài Gòn trước năm 1975! Người cựu tù “cải tạo” Miền Nam như Tân và các bạn vừa được phóng thích, thân hình gầy còm, đầu trần húi trọc, chân mang dép lốp…cảm thấy xót xa, cay đắng trong lòng!

            Buổi chiều, xe lửa bắt đầu chạy. Hai mươi lăm “cựu tù cải tạo” ngồi ở một toa tàu riêng biệt. Vé tàu tập thể được giao cho một người đại diện cầm giữ. Tàu chạy qua những cánh đồng lúa, mạ non vừa mới cấy. Và trên những đám ruộng xanh um, thỉnh thoảng có những hố bom tròn, to như những chiếc nong đựng lúa, nước sâu, xanh biếc…Tân đã nhìn những bố bom còn lưu lại dấu vết chiến tranh, nằm dọc hai bên đường xe lửa. Anh phân vân tự hỏi: người phi công rải thảm những trái bom ấy đã “ném sai mục tiêu”; hay người chiến binh Mỹ muốn đem “lòng nhân đạo” vào cuộc chiến chống CS tại Miền Bắc Việt Nam trước đây?

            Xe lửa dừng lại Huế khá lâu. Lâu đủ để Tân bước xuống sân ga, nhìn lại nơi mà anh và gia đình đã đến đây vào mùa đông năm 1954, sau nửa tháng trốn chạy khỏi “vùng cờ đỏ” Liên khu 5 của Việt Minh. Hôm nay, cũng tại sân ga này, anh ngồi xuống thưởng thức một tô bún bò Huế, cảm thấy thật ngon miệng sau sáu năm bắt buộc phải sống “chay tịnh ”!  Chẳng khác  lối sống của người “quân tử ” trong “Hàn Nho Phong Vị Phú” của Nguyễn Công Trứ:

 

Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no…” Thật ra, người tù “cải tạo” ở Việt Nam có lối sống của người “quân tử tàu”, ăn chẳng cầu no (thực vô cầu bão), cũng không đúng! Bởi, mỗi ngày trại viên chỉ được cung cấp hai bữa sắn ngô, với rau mắm. Và mỗi bữa, khẩu phần theo tiêu chuẩn quá tiết kiệm; đến nỗi cái đói kéo dài bao năm tháng đã làm người tù“cải tạo” chỉ còn da bọc xương, chết dần chết mòn …

            Sau khi chui qua hầm đèo Hải Vân dài hun hút, tối mịt, toả đầy khói bụi …tàu chạy qua bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Đến Nha trang, tàu dừng lại hơi lâu. Đột nhiên, một cô gái nhỏ bé, gầy ốm nhưng nhanh nhẹn; hai tay cô bé ôm một bao nhỏ, chạy đến chỗ Tân ngồi. Trước khi anh tìm hiểu sự việc gì xảy ra, cô bé ấn nhanh chiếc bao căng phồng dưới băng ghế của Tân, năn nỉ anh lấy hai chân che lại. Khi  công an kinh tế đuổi theo, cô bé lại vụt chạy xuống sân ga…Tên công an nhìn khắp toa tàu, chỉ thấy toàn là cựu tù “ cải tạo”, bèn tiu nghỉu bỏ đi, truy đuổi tiếp những người “nhảy tàu” buôn lậu khác…

            Một lát sau, cô bé quay lại xin lấy chiếc bao dưới băng ghế của Tân. Hai tay cô bưng một chiếc nón chứa những ổ bánh mì nho nhỏ…Cô bé nhìn Tân, rồi nhìn các bạn đồng cảnh ngồi gần anh, nhỏ nhẹ nói : 

            -Cháu xin cám ơn các chú. Nếu chú không giữ giùm chiếc bao, mấy ổng bắt được lấy hết gạo, chắc chiều nay cả nhà cháu nhịn đói!

            Cô bé lấy những chiếc bánh mì trong nón ra mời Tân và các bạn của anh. Thấy anh ngần ngại không muốn nhận, cô bé nói tiếp giọng xúc động: 

            -Thấy các chú, cháu nghĩ đến bố cháu. Không biết bao giờ bố cháu mới được tha về? Cháu có vài ổ bánh mì, xin biếu các chú ăn lấy thảo…

            Theo lời cô bé, bố cô là một thẩm phán toà án của tỉnh này trước năm 1975. Khi thành phố bị VC tràn vào, ông bị chúng bắt và đưa đi “cải tạo” cho đến nay! Ở nhà gia đình quá túng quẫn, mẹ không xin được việc làm, nên cô bé phải đi “nhảy tàu” buôn lậu những bao gạo nho nhỏ.  Đây là việc làm rất nguy hiểm do tai nạn tàu hoả; cũng như dễ bị công an kinh tế bắt giữ và tịch thu “tang vật”, mất vốn làm ăn…Nhưng nếu không làm thì cả nhà bốn miệng ăn sẽ bị đói meo!  

            Khi tàu vào đến địa phận Sài Gòn thì trời đã về chiều. Còi tàu hú vang, chạy chậm lại và ngừng hẳn ở ga Bình Triệu, ngoại ô thành phố. Tân bước xuống sân ga. Dưới ánh nắng chiều gay gắt, một quang cảnh đông đúc, ồn ào, náo nhiệt chưa từng thấy. Cảnh chen lấn của những người bán hàng rong. Cảnh tranh khách của những người đạp chiếc xích lô. Cảnh tài xế taxi vây lấy khách vừa bước xuống tàu, sẵn sàng giằng lấy hành lý của họ để chiêu dụ lên xe.Mới năm năm đi xa, người cựu “tù biệt xứ” thấy thành phố này đã đổi thay quá nhiều! Như một người yêu đi lấy chồng, thay tên đổi họ, thay đổi cả hình dáng lẫn tính tình của một thời con gái trước đây.

            Tân đang do dự trước những chèo kéo mời chào, một chiếc xích lô trờ tới sát bên anh, và một thanh niên trẻ bước xuống xe nói:

            -Bác lên xe cháu đi. Bác chỉ đường để cháu chở về nhà bác…

            Trên quãng đường dài từ Bình Triệu về đường Trần Hưng Đạo, quận 1, người thanh niên trẻ vừa đạp xe vừa nói chuyện. Cậu cho biết, bố nguyên là một trung sĩ của quân đội VNCH. Ông không bị bắt đi “học tập cải tạo” dài hạn, nhưng cũng không kiếm ra việc làm, nên phải đạp xích lô để nuôi gia đình với bốn miệng ăn. Cậu con đã nghỉ học, ở nhà phụ bố đạp xe chở khách kiếm sống…Thấy Tân im lặng quá lâu, cậu gợi chuyện:

            -Nhìn thấy bác ốm yếu, xanh xao…mà lại về bằng tàu Thống nhất nên cháu đoán bác đã “cải tạo miền ngoài”. Ba cháu dặn khi gặp những người như bác, nên tìm cách giúp đỡ. Bác yên tâm, đừng lo cháu làm “ăng ten” cho công an. Ra khỏi trại tù, bác đừng sợ gì cả!

            Xe chạy qua bùng binh Sài Gòn. Đường phố vào buổi chiều thật đông đúc. Xe cộ kẹt khắp nơi. Những chiếc xe gắn máy, xe đạp chen lấn cùng người đi bộ…Chiếc xích lô cổ lỗ, chậm chạp, cuối cùng cũng đưa Tân về đến đường Trần Hưng Đạo, quận 1. Khu phố anh ở, cảnh vật đã khác xưa rất nhiều. Xe dừng lại trước căn nhà anh đã ở trước khi ra đi. Mẹ anh nhìn ra, ngỡ ngàng   lẫn vui sướng kêu con cháu ra chào đón “người về từ phương xa”! Các con anh đang chơi trước cổng, chạy đến ôm chầm người đàn ông gầy gò, hốc hác mà chúng vẫn nhận ra người cha yêu quý. Vợ anh dẫn đứa bé út ra chào đón. Cô bé sáu tuổi nhìn người đàn ông xa lạ, ngỡ ngàng rồi lắc đầu, ôm chầm lấy mẹ! Vợ anh nhìn anh, nước mắt rưng rưng. Nàng vội trao cho anh ít tiền để trả cho người đạp xích lô đang đứng chờ. Khi Tân đưa mấy tờ giấy bạc, cậu thanh niên khoát tay, nói:

            -Dạ, ba cháu dặn đừng lấy tiền người đi “cải tạo” mới về! Bác còn khổ hơn ba cháu nhiều. Bác cứ coi như đây là món quà cha con cháu tặng bác…Chào bác, cháu đi!

            Tân thở dài nhìn theo người thanh niên, con của một hạ sĩ quan “bên thua cuộc”, mà ngày nay dẫu tan đàn lạc nghé nhưng vẫn giữ được tình “huynh đệ chi binh”!   

            Và từ đó, niềm vui “ngày trở về” chưa được được hưởng trọn, cuộc sống ở xã hội mới đã khiến Tân có tâm trạng đau buồn của kẻ mất nước, mất tự do. Như tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ: “Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt- Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua…”.

                                                        *         *         *

           

Khi Tân chia tay với cô hàng kính mát ở phố Bolsa, bước ra khỏi tiệm thì nắng chiều đã xuống thấp, hoàng hôn đang lên cao. Cái nóng của nắng mùa hè đã dịu; và cơn gió biển từ Huntington Beach nhẹ nhàng thổi tới làm mát rượi thành phố.

            Cuộc gặp gỡ cô cháu gái của một người đồng cảnh, cùng trại bên bờ sông Mã năm xưa, đã khiến Tân nhớ đến những người bạn tù còn nằm lại trong các trại “cải tạo” từ Nam chí Bắc! Ba mươi năm trước, anh tưởng ngày trở về của anh sau bao tháng năm mất tự do, chịu bao cay đắng, tủi nhục… sẽ cảm khiến anh thấy hãnh diện, hân hoan và vui sướng. Nhưng anh đã lầm! Những người bạn tù còn vĩnh viễn nằm lại, đối với anh vẫn luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi!

            Trong bản nhạc “Kể Chuyện Người Thương Binh” của Phạm Duy có đoạn:                

            Một chiều, một chiều trên quãng đường xa 
            Bóng người anh dũng năm xưa ra đi chốn này 
            Chàng về nay đã cụt tay 
            Chàng về, chàng về nay đã cụt tay … 

            Nếu chiều xưa có “người anh dũng” trở về với một cánh tay cụt, thì  chiều nay, người “tù cải tạo” tên Tân đã trở về với một thân xác tiều tụy, một cõi lòng tan nát. Vết thương tâm lý đó - một loại “hội chứng sau khi cải tạo”- không thể nào chữa trị nhanh chóng như người ta có thể gắn lại một chiếc tay giả cho chàng thương binh kia!

            Sau ngày trở về từ trại tù CS, Tân đã sống lây lất thêm mười năm nữa tại Việt Nam, với nhiều công việc lao động cực nhọc, với tiền lương ít ỏi thiếu trước hụt sau. Mãi đến đầu năm 1992, anh mới rời khỏi đất nước CS độc tài ấy, ra đi tỵ nạn ở một quốc gia xa lạ nhưng đầy Tự Do và Nhân Ái. Nơi đây, anh sẽ sống nốt những tháng năm yên bình, hạnh phúc ở cuối quãng đời còn lại. Và nơi đây, anh sẽ không phải chứng kiến những hận thù giai cấp, những đấu tố tàn bạo; không còn phải kéo lê cuộc sống trong  những “trại cải tạo” tàn độc như ở đất nước mà anh và hàng triệu đồng bào của anh đã từ bỏ  ra đi…

Tam Bách Đinh Bá Tâm

 

 


  

 

No comments: