Wednesday, December 19, 2012

CHIẾC NÓN CỜI

____________


Trần Mộng Tú

Tháng 11 vừa qua đến Dallas dự một cuối tuần họp mặt anh chị em văn nghệ sĩ, tôi theo chân người bạn xứ Quảng đến nhà người thân của anh. Tôi được anh báo cho biết là sẽ được ăn mì Quảng ở đấy, một tô mì Quảng chính hiệu. Ðón chúng tôi ở cửa là hai người đàn ông trọng tuổi, ông chủ nhà và một người bạn, cả hai nói tiếng Quảng đặc sệt, tôi cố nghe bằng cái tai Bắc kỳ cũ của mình tiếng được tiếng không. Một người đàn bà từ trong bếp chạy ra chào chúng tôi trên tay còn cầm đôi đũa bếp. Bà được giới thiệu là chủ nhà, người thân của anh bạn. Bà cười, nụ cười thân thiện, tươi tỉnh mời chúng tôi vào nhà, rồi lại chạy ngay vào bếp. Một chiếc bàn tròn đặt giữa bếp và buồng gia đình đã dọn sẵn bao nhiêu món ăn trên đó: Nào là nem chua, chả chiên, tré, bánh gai, bánh nếp, bánh ú v.v. Ông chủ nhà giới thiệu hầu như tất cả những món ăn đó đều do bếp nhà làm, bếp nhà nấu.


Tôi xin phép được vào bếp xem bà chủ nhà nấu mì Quảng, gia chủ lên tiếng gọi vợ và đưa tôi vào bên trong, nhưng không phải vào cái bếp xây ở trong nhà mà là một cái bếp biến chế đặt ở ngoài sân sau.

Chao Ôi là cái bếp! Một cái bếp khác hẳn những cái bếp mà tôi từng thấy ở bên ngoài nước Việt Nam. Ðó là một cái bàn nhỏ hình chữ nhật,
chung quanh phía trên được quay lại bằng một miếng thiếc lớn, bên dưới gầm bàn có bình gas, trên bếp hai cái nồi nấu mì Quảng đang sôi sùng sục. Ðằng sau lưng của bà Bếp một cái bàn khác xếp đủ mọi thứ: Từ rổ rau, nồi xoong, chai nước mắm, lọ muối, con dao, cái thớt, tất cả mọi thứ cần dùng cho nhà bếp. Cái làm tôi chú ý nhất là nột cái thùng nhựa cao, đựng một thứ nước đục lờ, tôi đoán là thùng đựng tất cả những thức ăn thừa, hoặc thức nấu thừa đổ vào đấy. Tôi nhìn xa hơn chút nữa là một mảnh vườn xanh biếc đủ các thứ rau dưa cần dùng cho bà nội trợ, tôi biết ngay mục đích của cái thùng “nước gạo quê nhà” này. Bà chủ nhà mời tôi bước vào vườn, Bà chỉ từng bụi rau, cây cà, cây ớt, cây chanh, bụi xả, bụi húng, bụi lá gai để làm bánh gai, giàn mướp, giàn bầu. Bà cắt nghĩa cái đang ra hoa, cái đã bắt đầu hết mùa. Bà nói tiếng Quảng, tôi vừa nghe vừa nhìn nét mặt, miệng nói của bà để hiểu rõ hơn. Da bà nâu hồng, khuôn mặt xương xương, miệng tươi, hai mắt sáng. Bà di chuyển nhanh nhẹn giữa cái bếp và mảnh vườn con. Cúi xuống hái thêm một nắm rau thơm, bà nói:
“Cái mì Quảng ni, phải có rau thơm vào hắn mới ngon.”

Ngôn ngữ mỗi miền có cái đẹp riêng của nó. Tại sao lại gọi tô mì bằng tiếng “Hắn” thân yêu như thế nhỉ! Làm như tô mì là một cậu thanh niên có tay, có chân, cũng ngồi vào bàn ngay bên cạnh mình. Miền Bắc, miền Nam đâu có gọi như thế bao giờ. Nếu thử thay đổi câu nói đó như thế này: Cái mì Quảng này, phải có rau thơm nó mới ngon. Thì chữ “nó” đúng là tô mì rồi. Nhưng chữ “hắn” thì thật quá là “Người”. Chao ôi là cái tuyệt vời của ngôn ngữ! Chỉ một tiếng thả lơi trong câu nói lại bỗng nhiên biến thành mệnh đề chính.

Bà chủ nhà mời mọi người vào bàn, mỗi người một tô mì bốc khói trước mặt. Ông chủ xếp lên bàn cả 10 lon bia cho bốn người đàn ông. Ông với tay lên nóc cái tủ chén sau lưng lấy xuống một chồng bánh tráng mè, chia cho mỗi người một cái, ông vừa bẻ từng miếng nhỏ bỏ vào tô mì vừa nói:
”Bánh này do bà ấy làm đấy!” rồi ông kể chuyện làm bánh tráng mè của bà.

“Các bà xứ Quảng rủ nhau làm bánh tráng, cũng bấy nhiêu bột, bấy nhiêu nước mà không hiểu sao khi đem bánh phơi, bánh cứ bị nứt ra. Mãi sau các bà mới khám phá ra là tại cái nắp nồi. Cái nắp nồi phải là cái nón cời, không thể dùng cái nắp kim loại được.”

Tôi hỏi cái nón cời là nón gì? Thì được cắt nghĩa là một cái nón rách. Cái nón lá phải cũ, phải rách, khi đậy lên lớp bột tráng trên miệng nồi thì mới thoát hơi nước ra ngoài được, do đó khi đem đi phơi thì bánh mới không nứt. Quả thật, khi bắt đầu dùngcái nón cời làm nắp, bánh phơi ra nắng, không có cái nào bị nứt.

Tôi cúi nhìn chiếc bánh trên tay. Cái bánh nguyên vẹn tròn như mặt trăng rằm, những hạt mè trắng rang vàng rắc lên mặt như nhữõng chùm sao bay lạc vào đấy. Nghe chùm sao bay lạc vào mặt trăng kể cũng lạ thật. Nhưng không sao cả, cứ tưởng tượng ra như thế thì khi bẻ một miếng bánh tráng cho vào miệng, chẳng khác nào như được ngậm một mảnh thơ.

Tôi bẻ miếng bánh thơ cho vào miệng, bánh thơm phức, ròn tan. Tôi chỉ ăn hết nửa tô mì Quảng vì còn phải để bụng ăn thêm những món khác bầy trên bàn. Bà chủ nhà bóc một chiếc bánh gai đen bóng ra mời, bánh trộân bằng bột nếp và lá gai tươi hái ở ngoài vườn, nhân bánh bằng đậu xanh, tán nhuyễn, trộn đường, có vài sợi dừa và mứt bí. Bà chủ nhà quý khách quá, vừa tiếp ăn vừa nói.

“Bánh ni đem về được, mỗi người gói một ít đem về nhà, không hư được đâu.”

Tôi thật thà: “ Chị cho em thêm mấy cái bánh tráng này, bánh ngon quá!”

Cả hai ông bà cùng vồn vã:
“Lấy đi, bà ấy làm hoài mà.”

“Ðem về hết đi, mai mốt tôi sẽ làm thêm. Bữa ni con dâu sanh, tôi phải chạy qua trông thằng cháu nội ba tuổi, rồi còn phải nấu cơm cho mẹ nó nên không có làm nhiều.”

Tôi nhìn hai bàn tay gầy guộc của bà, những ngón tay có hình dạng như củ gừng, móng tay cụt ngắn, không sơn phết, không mang nhẫn ngọc, nhẫn vàng gì cả bằng con mắt cảm phục. Tôi nhớ người Trung Hoa nói phụ nữ có bàn tay trông như củ gừng là người phụ nữ đảm đang, giỏi quán xuyến gia đình, chồng con được nhờ.
Tôi hỏi nhỏ “Chị tuổi gì mà đảm đang quá vâïy!”

“Tuổi Dần, cực lắm cô ơi! Tuổi Dần vừa mần vừa ăn, nên tôi làm cả ngày. Cứ cái vườn cái bếp nhà mình xong, lại qua nhà con.” Bà nói tiếng than với nụ cười rạng rỡ trên mặt như người ta nói về một niềm hạnh phúc chỉ riêng mình có.

Chúng tôi vừa ăn, vừa nói chuyện, hết chuyện nấu nướng đến chuyện văn chương, thơ phú. Sao mà bây giờ ở hải ngoại nhiều thi sĩ thế. Nơi nào có người Việt là có thi sĩ in Thơ, ra mắt. Thi sĩ nhiều hơn văn sĩ, vì làm một bài thơ coi bộ nhanh hơn nghĩ một truyện ngắn. Anh bạn tôi cười “Làm vè còn nhanh nữa.”

Tôi kể lại chuyện tối hôm qua gặp nhau, tôi nghe một nhà văn trẻ nói “ Em thật ghét cái câu: Mỗi người Việt Nam là một thi sĩ quá! Thế nào cũng có lúc em viết bài phản đối câu này.” Tôi bảo em cẩn thận, câu này bây giờ được dùng thường xuyên là câu mở đầu cho những lần ra mắt thơ đó.

Chúng tôi đề cập đến những lỗi sai trong một bài thơ hay bài văn bây giờ rất ít vì tác giả tự đánh bài trên máy vi tính rồi gửi thẳng đến tòa báo. Không còn cái cảnh “trái tim bi thương” đánh sai thành “trái tim bị thương” nữa.(Ðánh sai như thế này thì chính tác giả bị thương chứ không phải thơ.)

Hai mươi năm trước mà gửi bài đến tòa báo bằng một cái disket cũng là văn minh lắm rồi. Tiếp chuyển đến thời kỳ gửi bằng email, mới thực tuyệt vời. Chỉ cần vài phút sau là nhận được, thêm mươi phút nữa là có thể thay đổi một phần nội dung bài viết. Không ngạc nhiên khi biết hiện nay trên toàn thế giới mỗi ngày có hơn 600 triệu người dùng email để liên lạc với nhau.(So với năm 1974 mới có con số hàng trăm –mà chỉ trong quân đội). Viết tiếng Việt thì hầu như người viết nào cũng có font tiếng Việt ở máy vi tính của mình.

Tôi nhớ lần đầu tiên tôi dùng email chuyển bài cho Văn Học và Hợp Lưu được cả hai ông Chủ Bút gửi lời khen ngợi, mừng rỡ như gặp Lý Toét lên tỉnh. Tôi biết khi tác giả dùng email chuyển bài thì những người phụ trách tạp chí rất mừng, ïmừng vì không phải lóc cóc đánh bài lại, và không khổ vì nạn các tác giả gọi tới, gọi lui đòi sửa một chữ trong bài thơ hay thêm một, hai dòng vào bài viết. Bây giờ tác giả tự sửa lấy bài mình rồi gửi lại chỉ cần nhắn vài chữ. “Bỏ bài trước, lấy bài này nghe!” Thế là cả người nhận lẫn người gửi đều vui vẻ, ăn ngon, ngủ yên, không còn phải cái khổ nằm trằn trọc suốt đêm, đợi sáng mai gọi điện thoại sửa bài, rồi gọi không gặp cộng thêm một ngày nữa nôn nao trong ruột.

Ðời sống văn minh kỹ thuật càng ngày càng thay đổi, nhất là kỹ thuật điện toán, thay đổi đến chóng mặt, cái lap top này mới ra, giá hai ba ngàn đô, chỉ độ một hai năm sau cái khác có mặt giá rẻ hơn và tân kỳ hơn.

Anh bạn kêu lên: Ôi! Lại còn cái mục chụp hình, chụp ảnh nữa chứ! Thấy cái máy hình Digital không? Chụp cái tách, xem liền trên máy, thích thì giữ, không thích thì xóa đi, cho vào máy vi tính, mọi người xúm lại xem. Có máy in, có giấy in hình, in ra ngay phát cho mỗi người một tấm. Hồi tôi mới qua, 1992, đến nhà bạn ăn cơm, chụp hình, lúc về các cháu cho mấy tấm hình đem về, đã khâm phục cái One Hour Photo, và cho là sướng lắm rồi.

Tôi nói thêm: Còn cái vụ trên xe hơi có bảng chỉ đường (navigator) mới hấp dẫn làm sao!

Anh đánh cái địa chỉ vào xe, xe hướng dẫn anh đi từng chặng, rẽ phải rẽ trái đến tận nơi anh muốn đến. Nếu anh đi quá một quãng đường thôi là máy điện toán biết ngay, giống như có người đang ngồi bên cạnh, nó chỉ cho anh quay lại từ con đường anh đi lạc. Tôi là người rất dốt về phương hướng, tôi mê nhất cái kỹ thuật này.

Chúng tôi, mỗi người một tiếng khen, chê sự thay đổi của đời sống kỹ thuật nói chung ảnh hưởng đến đời sốâng tâm hồn thế nào, và gia đình, xã hội cũng nhận được những thăng trầm biến đổi theo những ảnh hưởng đó.

Có tiếng trẻ con từ ngoài cửûa chạy a vào. Thằng bé lên ba làm cả nhà ngưng đề tài đang nói. Nào là ông nội, nào là Bố bắt khoanh tay cúi chào các ông, các bà. Thằng bé ngoan ngoãn làm theo lời, giọng nó ngon như miếng bánh nếp của bà nội vừa bóc ra. Nó chạy a lại phía bà nội. Hai bà cháu ríu rít ôm nhau, bà khoe:
“Thằng ni, hắn giỏi nịnh bà nộâi, bao giờ tôi cho hắn ăn hắn cũng khen bà nội nấu ngon quá!”

Bà quay ra nói với con trai:
“Con đem thức ăn về cho vợ con, mẹ xếp sẵn rồi.”

Khi tôi trở về Seattle, ngồi trên máy bay, mở miếng bánh tráng mè của người đàn bà xứ Quảng ra nhâm nhi, cái bánh tráng tròn như trăng rằm, có rắc những hạt sao mè thơm tan trong miệng tôi. Tôi nhớ đến cái bếp để ngoài sân, đến thùng “nước gạo” đến cái mảnh vườn con của bà. Bà mang cả một góc xứ Quảng trong hồn đặt vào mảnh đất khô khốc của một xứ sở xa xôi của miền trung nước Mỹ. Mặc cho đời sống xã hội bên ngoài thay đổi, cái tiểu gia đình của bà vẫn có người đàn ông ngồi ở bàn cơm chờ vợ mang thức ăn đặt trước mặt, để ông ngồi nói chuyện thơ văn. Có bà mẹ với bàn tay củ gừng nấu những tô mì Quảng, tự làm bánh tráng cho cả nhà, có bà nội vừa ôm cháu, vừa nấu ăn cho con dâu mới sanh.

Mảnh vườn nhỏ xanh biếc trong hồn bà như một chiếc vòng ngọc không tì vết, chiếc nón cời như một mái che hạnh phúc đơn sơ mà kỳ diệu, kỳ diệu đến nỗi không có một văn minh kỹ thuật điện toán nào len vào được, vì khi nó len vào, nó sẽ chẳng khác nào cái vung kim loại làm những vừng trăng hạnh phúc nứt ra mất.

Tết Bính Tuất (2006)

2 comments:

Anonymous said...

Kính chào cô Trần Mộng Tú. Đọc bài "Chiếc Nón Cời" tôi thấy mình thật là hạnh phúc vì đã có người nhắc tới quê hương xứ Quảng Nam cuả tôi:
"quê tôi nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn" và món mì Quảng lại là món mà đứa con thứ 3 của tôi nó thích nhất mặc dù nó sinh ra tại Mỹ. Qua câu chuyện nầy, tôi thấy rất rõ ràng một gia đình người Quảng Nam đã yêu mến quê hương mình: nào mì Quảng, nào bánh tráng, nào vườn rau xanh đầy hương vị ngọt nào tình tự dân tộc. Một người vợ, một bà mẹ đãm đang với hai bàn tay xấu xí và thân hình ốm o nhưng đó là một tổ ấm cho gia đình chồng vợ, con cháu nương náu trong suốt cuộc đời của họ. Cám ơn Trần Mộng Tú đã gợi lên một hình ảnh đáng trang trọng trong cộng đồng người Việt Tị nạn.
Xin gởi tặng TMT một bài thơ của nhà thơ Hoa Hướng Dương :

NGÔI NHÀ TỴ NẠN


Ngôi nhà tỵ nạn có gì hay?
Ngõ trúc đong đưa chiếc lá gầy
Bụi chuối sau hè phe phẩy gọi
Ngỡ hồn dân tộc ở quanh đây...

Nào mai, nào huệ, nào lan, lựu
Nào cúc, nào hồng, nào thủy tiên
Sáng sớm thong dong ra dạo cảnh
Xanh, vàng, tím, đỏ đủ làm duyên

Nâng niu từng cánh hoa thân thiết
Chợt thấy nàng hoa cũng mỉm cười
Âu yếm mơn tình trên lá biếc
Nghe hồn sống lại tuổi đôi mươi

Lung lay đáy nước bóng sen hồng
Cây bưởi đang hồi sung mãn bông
Ong, bướm chập chờn khoe cánh mộng
Ngất ngây hương thoảng kết hoa lòng

Bước tới vườn rau thời lạc xứ
Quê hương hiện diện ở nơi nầy
Tía tô, dấp cá, hành, ngò, quế
Húng nhũi, tần ô, ớt mọc đầy

Bầu, bí chung giàn vẫn tốt tươi
Bạc hà, rau muống, giậu mồng tơi
Vươn vai thức dậy cười trong nắng
Đâu biết mình đang lạc bến đời?

Hoa, cỏ vô tình khơi nỗi đau
Lệ người vong quốc lại tuôn trào
Xa quê, nhớ mãi ngôi nhà cũ
Có cảnh vườn xưa đượm sắc màu…

Tháng Tư nhớ nhà 2006
Hoa Hướng Dương

Anonymous said...

Kính chào Trần Mộng Tú, Tôi vừ viết đoạn trên nhưng quên để tên. sau đây cũng xin tặng Mộng Tú một bài thơ:

XỨ QUẢNG QUÊ TÔI

Xứ Quảng quê tôi quả tuyệt vời
Bên bờ biển cả sóng mù khơi
Sau lưng một dãy trường sơn rậm
Trước mặt hồng lên ánh mặt trời

Ruộng lúa cò bay chưa mỏi cánh
Ao hồ phẳng lặng cá rong chơi
Vườn trưa ríu rít đàn chim gọi
Xế bóng trâu về dáng thảnh thơi

Mẹ đứng nhìn ra mấy dặm dài
Cha, con cày cuốc nặng đôi vai
Bếp cơm sưởi ấm chiều đông lạnh
Tối đến quây quần chuyện gái trai

Xứ Quảng quê tôi đẹp mọi miền
Tơ vàng óng ánh quận Duy Xuyên
Đường qua Trà Kiệu cầu soi nước
Ẩn hiện trong sương mấy bóng thuyền

Ngước mắt đồi cao cây rợp mát
Đền thờ Đức Mẹ đứng uy nghi
Tiếng chuông cứu rỗi, đời an lạc
Chứng kiến bao lần cuộc thịnh suy

Đại Lộc miền cao vùng núi biếc
Sông Thu khua nhẹ mái chèo êm
Đường xa lữ khách dừng chân bước
Ngắm cảnh chiều rơi, đêm tiếp đêm…

Ái Nghĩa ai qua gởi chút tình
Anh về cởi vội áo thư sinh
Rồi anh cứ mãi theo đời lính
Nặng với non sông nhẹ chúng mình

Mỗi sáng tinh sương vọng tiếng còi
Kỳ Lam ga đợi kẻ xa xôi
Tỏ mờ trong ánh trăng vàng úa
Tay vẫy chào nhau cách biệt thôi

Bất Nhị, Bằng An, tháp Cổ Chàm
U buồn hoang lạnh khói mờ lam
Nghe trong hơi gió thơm hương tóc
Xào xạc xiêm y tiếng khóc thầm

Vĩnh Điện êm đềm trong sớm mai
Cổng trường Duy Hiệu* nhớ mong ai
Đường lên Bến Đá sông xanh mát
Cổng trúc nhà em hoa nắng phai…

Đà Nẳng sông Hàn nước mãi trôi
Ven bờ cây rũ bóng gương soi
Đò ai lờ lững đưa qua lại
Chở những tình xưa lỡ hẹn rồi…

Trường cũ giờ đây áo trắng đâu?
Tóc thề buông xõa mắt đen nâu
Dáng ai phảng phất Chu Trinh* cũ
Nhớ quá làm sao vỡ khối sầu

Ngũ Hành năm ngọn cảnh bồng lai
Vách đá cheo leo vọng Hải Đài
Trên đỉnh Huyền Không chuông vọng lại
Lòng trần thanh thoát bụi trần ai…

Gành đá chông chênh sóng vỗ bờ
Cát nằm nhung nhớ bước chân ai
Mỹ Khê hò hẹn mùa trăng sáng
Một dãy Tiên Sa khói tỏa mờ…

Cửa Đại mông mênh sóng nước về
Thuyền ai chở nặng cá đầy ghe
Hội An phố cổ người lên, xuống
Phượng đỏ ngàn bông rợp nắng hè

Quý Cáp* sân trường xanh bóng me
Anh theo tiếng gọi chẳng quay về
Quê hương từ thuở vào chinh chiến
Ai khóc thương ai bạc tóc thề…

Quế Sơn quận nhỏ vốn quê em
Đồi núi xanh lơ tựa bức rèm
Lối vắng quanh co vài cánh bướm
Chập chờn e lệ nụ hoa đêm…

Xứ Quảng quê tôi giờ nhớ lắm!
Phần tư thế kỷ sống lưu vong
Mai về ta lấy non sông lại
Nhìn bóng cờ bay, thỏa vạn lòng…

Cát Dương

*Trường Trung Học Nguyễn Duy Hiệu(Vĩnh Điện)- Phan Châu Trinh (Đà nẵng) -Trần Quý Cáp (Hội An)