_______________
Chuyển đến từ Chị Lý Mỹ Hạnh
NGUYỄN PHƯƠNG
Tết
Đinh Dậu 2017, theo dõi sân khấu cải lương ở Việt Nam, tôi thấy không có quảng
cáo hát Tết nhiều như trước năm 1975. Các rạp hát ở THHCM, Nhà hát Thành Phố,
Nhà hát Hòa Bình, Trung Tâm Ca Nhạc Lan Anh, Nhà hát Bến Thành, Rạp hát Thủ Đô
Chợ Lớn, đều không có chương trình biểu diễn nghệ thuật. Lịch biểu diễn của các
nhà hát này gần như trống trơn.
Trung
Tâm Nghệ Thuật Cải Lương Hưng Đạo (tức rạp Hưng Đạo cũ) được chủ thầu xây dựng
bàn giao từ ngày 18/ 4/2014, phải sửa chữa lại đến nay mới khai trương hát
trong dịp Tết Đinh Dậu 2017. Nhà hát Trần Hữu Trang khai trương rạp mới và hát
Tết Đinh Dậu với ba tuồng: Hiu Hiu Gió Bấc, Hồn Ma Báo Oán, Mộng Hoa
Vương.
Trung
Tâm Nghệ Thuật Cải Lương Trần Hữu Trang chỉ có 680 ghế mà hát Tết này, vé bán
không được nửa rạp (Trước 1975 rạp Hưng Đạo cũ có 1200 ghế, hát Tết nào cũng
hát hai suất từ mùng một đến mùng 7 mà vé hát bán hết rạp, phải thêm ghế súp
trên đường đi hai bên hàng ghế giữa từ cuối rạp đến gần sát mặt tiền sân khấu.)
Khán
giả nói: “Hát Tết mà không kiêng kỵ, tuồng Hiu Hiu Gió Bấc,
tuồng Hồn Ma báo Oán, ai mà đi coi? Xui cả năm! Tuồng Mộng
Hoa Vương thì kết cuộc sứ thần Ngô Trung Cảnh bị giết chết, Mộng Hoa
Vương đưa xác của Ngô Trung Cảnh lên thuyền, bà bỏ ngôi vương nữ, hộ tống xác
chết người yêu về cố quốc của kẻ bạc mạng! Tuồng chết chóc, đau thương mà đem
ra hát Tết, chỉ có Quỷ vương đi coi thôi !”. Họ nói Quỷ vương xem hát,
chắc ý muốn nói là các ủy viên cộng sản!
Ngày
mùng 8 Tết (4/2/17) nhóm cải lương Hồ Quảng gồm có Chuông vàng vọng cổ Võ Minh
Lâm, Tú Sương, Chí Linh, Vân Hà, Chí Cường, Hề Hiếu Cảnh, Thanh Ngọc, Lê Khanh
diễn một suất hát Thân Xuyến Mừng Xuân tại sân khấu Lê Hoàng số
144 đường Đinh Tiên Hoàng Quận Bình Thạnh. Cũng nhóm nghệ sĩ này diễn tại sân
khấu Lê Hoàng (Bình Thạnh) một suất hát ngày mùng 9 Tết (5/2/17) tuồng hồ quảng Mai
Trắng Se Duyên.
Ở
các tỉnh lớn như Mỹ Tho, rạp hát Vĩnh Lợi (Rạp Thầy Năm Tú xưa) ở gần Chợ Mỹ
Tho cũng vắng bóng các đoàn hát. Rạp hát Tây Đô (tỉnh Cần Thơ) số 15 đường Trần
Hưng Đạo quận Ninh Kiều cũng đóng cửa gần suốt năm qua, nay dịp Tết cũng chẳng
có đoàn hát cải lương nào hát. Ở tỉnh Bạc Liêu, Nhà hát Nón Lá Cao Văn Lầu,
xây theo mô hình ba chiếc nón lá úp xuống với khán phòng A có 850 ghế nhưng Tết
này cũng đóng cửa, không có đoàn hát cải lương nào đến diễn.
Khi
tôi điện thoại hỏi một soạn giả đàn em ở Nhà hát Trần Hữu Trang thì anh ấy trả
lời: “Hiện nay Nhà Hát Thời Tối Đèn! Hy vọng Nhà hát Trần Hữu Trang
khai trương rạp mới để sau này có sân khấu cho các đoàn hát khác về hát, nhưng
còn lo một nỗi là tiền mướn rạp cao quá, rạp lại có ít ghế, thu không đủ chi,
chắc không có đoàn nào dám mướn. Chỉ có Nhà hát Trần Hữu Trang của chánh phủ,
hát ở rạp nhà, khỏi trả tiền mướn rạp nên hát chơi lai rai để quảng cáo”.
Tôi
hỏi: “Từ năm 1990, đến nay hơn 25 năm, năm nào cũng có thi tuyển Chuông Vàng
Vọng Cổ, đã chọn được hơn ba mươi chuông vàng vọng cổ và đào tạo được cả trăm
người biết ca vọng cổ. Khắp miền Nam có cả trăm Ban đàn ca tài tử. Hồi xưa chỉ
có vài Ban đàn ca tài tử ở MỹTho, ở Bạc Liêu, Cà Mau, vài tỉnh ở Hậu Giang, vậy
mà khai sanh được sân khấu nghệ thuật cải lương, ngày một phát triển, tạo được
một thời hoàng kim của sân khấu cải lương. Ngày nay, đã hết chiến tranh, riêng ở
thành phố đã đào tạo được hàng trăm ca sĩ và hàng chục chuông vàng vọng cổ mà tại
sao không vực dậy được sân khấu cải lương? Ai giết chết sân khấu cải lương?”
Anh
bạn tôi nói : -“Điều này khó trả lời quá! Có chuông vàng vọng cổ
thì phải có tuồng hay, phải có khán giả thích cải lương mua vé, phải có nhiều rạp
hát, phải thuận tiện đường sá xe cộ cho khán giả đến rạp hát, phải có điều kiện
cho dân chúng làm ăn dễ dàng, có thu nhập cao mới có tiền đi coi hát giải trí.
Những điều kiện vừa kể, hiện giờ khó kiếm. Để giải trí, bây giờ có bia ôm, hớt
tóc ôm, cà phê võng (cũng ôm luôn), karaoké cũng ôm, xem hát bóng có giường nằm,
vừa xem vừa… ngủ cũng được. Hát cải lương thì xưa quá rồi! Hai chục năm qua, kiếm
không ra một tuồng cải lương nào hay. Tuồng viết theo “định hướng chính trị”
hát được một ít suất rồi dẹp. Các đoàn hát vẫn hát lại những tuồng cũ trước năm
1975 và một số tuồng đã sáng tác trong các năm từ 76 đến 80. Tuồng cũ hay nhưng
tái diễn hoài khán giả cũng ngán, hết muốn xem tuồng cũ. Những chuông vàng vọng
cổ như mấy con chim én mới ra ràng, đâu có thể đem lại mùa xuân cải lương!
Thêm nữa, đường sá gì mà hể nước sông lớn hay trời mưa thì nhiều đường như con
sông thay cho đường đi. Làm sao mà chạy xe đến rạp hát được? Mưa xuống, nước ngập
gần tới yên xe, máy hư, lại đẩy bộ và tốn tiền sửa xe, thà ngồi nhà coi Ti vi
còn sướng hơn. Cải lương chết là phải rồi!”
Câu
nói “Chuông vàng vọng cổ như chim én mới ra ràng, đâu có thể đem lại mùa xuân”
khiến cho tôi nhớ những danh ca vọng cổ Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng
Cường, Tấn Tài, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh, Út Hiền, Út Bạch Lan, Thanh
Hương, Ngọc Giàu, Ngọc Nuôi, Thanh Nga, Ngọc Hương, Ánh Hồng, Lệ Thủy… những
nghệ sĩ khi được công nhận là danh ca vọng cổ thì cũng như những con chim mới
ra ràng nhưng dưới bầu trời có tự do dân chủ thì họ đã góp phần xây dựng một thời
hoàng km của sân khấu cải lương. Chỉ kể đến một hậu sinh, một khôi nguyên vọng
cổ trong năm 1964, nghệ sĩ Minh Vương, mới 14 tuổi đầu đã là người góp phần
không nhỏ cho lịch sử cải lương miền Nam trong thập niên 60 của thế kỷ trước.
Minh Vương năm 14 tuổi |
Khôi nguyên vọngcổ Minh Vương: Đường
lên đỉnh cao mơ ước!
Nghệ
sĩ Minh Vương tên thật là Nguyễn Văn Vưng, sinh năm 1950, tại Cần Giuộc, tỉnh
Long An. Từ năm lên 10 tuổi, bé Vưng lên Sàigòn , học trường Trung Học Hưng Đạo,
đường Cống Quỳnh. Trong gia đình không có ai theo nghề hát, nhưng bé Vưng lại
thích ca cổ nhạc vì trường Hưng Đạo ở gần rạp hát Hưng Đạo, là rạp thường xuyên
có những đại ban cải lương trình diễn trong những năm 1960 – 1975. Bé Vưng thường
đi xem hát cải lương hoặc coi tập tuồng ban ngày ở rạp hát, em mơ ước được trở
thành một nghệ sĩ như Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thành Được, Thanh Nga… Để thực hiện
mơ ước đó, em Vưng theo bạn học qua cầu chữ Y, học ca vọng cổ với thầy Bảy Trạch,
nhạc sĩ cổ nhạc đoàn cải lương Kim Chung.
Năm
1964, các nhật báo Sàigòn tổ chức cuộc thi ca vọng cổ tại rạp Quốc Thanh, người
đoạt giải Khôi Nguyên Vọng Cổ là em Vưng, 14 tuổi, học trò của nhạc sĩ đờn kìm
Bảy Trạch.
Ngay
sáng hôm sau ngày công bố danh hiệu Khôi Nguyên Vọng Cổ, ông Bầu Long đã phái
ông Phạm Thọ Minh, phụ tá đắc lực của ông tới tìm bé Vưng và ông Bảy Trạch, chở
hai người xuống tỉnh Long An, gặp cha mẹ của Vưng để ông bà và bé Vưng (vị
thành niên) ký kết cho bé Vưng, hát trên sân khấu Kim Chung, hai năm với số tiền
giao kèo là 10.000 đồng
Bầu
Trần Viết Long đoàn Kim Chung đổi tên Minh Vưng thành tên Minh Vương trên sân
khấu Kim Chung.
Lúc
đó Kim Chung có 5 đoàn hát, Minh Vương được đưa đến đoàn Kim Chung 3, ca vọng cổ
trước khi mở màn hát tuồng. Hai năm sau, khi 16 tuổi Minh Vương mới được
vai tuồng hát trong vở Tâm Sự Loài Chim Biển và Áo
Vũ Cơ Hàn. Báo chí kịch trường khen tặng. Số lượng khán giả đến xem Minh
Vương hát tăng lên. Ông Bầu Long đưa Minh Vương về hát ở đoàn Kim Chung 1, thường
trực rạp Olympic ở trung tâm thành phố Sàigòn. Khán giả đổ xô đến rạp Olympic để
coi Minh Vương hát ngày một đông. Trong khi đoàn Thanh Minh Thanh Nga làm bá chủ
sân khấu loại tuồng xã hội thì Kim Chung chiếm hàng đầu loại tuồng kiếm hiệp
màu sắc.
Với
loại tuồng kiếm hiệp, Minh Vương nhập thân vào những vai kiếm sĩ cô đơn, trong
những khung cảnh mưa gió bảo bùng hoặc sa mạc khô cháy, rong dủi tìm kẻ thù hoặc
cứu người, tìm sự công bằng, tìm những mối tình vời vợi tựa như ảo ảnh. Khung cảnh
lãng mạn trữ tình là mảnh đất thuận lợi cho những giọng ca ai oán, cô quạnh và
cho một Minh Vương vốn có ưu thế về sắc thái, gợi buồn, gợi nhớ, gợi cảm.
Minh
Vương thành công trong các vai: Hà Sơn Thái trong tuồng Vầng Trăng Năm
Cũ; vai Lý Nhị Lang trong tuồng “Hắc Sa Thôn Huyết Hận “, vai Lữ Phụng
Sơn trong tuồng “Người Trai Sa Mạc”, Vai Cao Nguyên Bình trong vở “Đêm
Lạnh Chùa Hoang”, vai Trác Phùng Quân trong tuồng “Mùa Thu Trên Bạch
Mã Sơn”.
Nếu
điểm từng tâm lý của những vai tuồng kiếm hiệp thời đó thì vai nào cũng yêu
đương, thù hận và hành động như nhau, bàng bạc tựa áng mây trôi giữa trời mà
thôi, nhân vật của Minh Vương thời gian ấy không bận tâm đến chuyện lưu lại một
cá tính sắc sảo nào như loại tuồng xã hội, mà chỉ man mác những nỗi niềm buồn
thương. Những nỗi niềm không thuộc về dấu ấn của một cá nhân nào, chỉ bàng bạc
chất lãng mạn, chung chung cho những phận đời. Đọng lại vẫn là những bài ca vấn
vương trong trong tâm trí khách mộ điệu vì làn hơi của kép trẻ đẹp Minh Vương.
Minh Vương có cách ca luyến vút lên cao ở những từ cuối câu 2 bản vọng cổ rất
là mùi mẫn, duyên dáng, có sắc thái riêng của Minh Vương mà người nghe không thể
lầm lẫn với các giọng ca khác. Trong vai Cao Nguyên Bình trong vở “Đêm Lạnh
Chùa Hoang”, Minh Vương ca khi bị tuyệt vọng vì yêu, lời ca như ray rức,
đau xé lòng khi phải chia tay người yêu. Cải lương lúc bấy giờ dành đất diễn
cho những mối tình tam, tứ éo le, thảm sầu, để cho diễn viên phô diễn chất giọng
ấm áp, sầu cảm mà Minh Vương là một trong số những danh ca làm rơi lệ nhiều
khán giả đa cảm thời đó.
Một
người đẹp ngành xuất nhập cảng đã si mê, đeo đuổi Minh Vương và sau cùng cô đã
bắt được cả hồn lẫn xác của chàng trai kiếm sĩ của sân khấu. Năm 1971, cô Lê Thị
Thu, người đẹp kể trên, kết hôn với Minh Vương.
Năm
1972, cô Thu, bà xã của Minh Vương, xuất tiền thối lại tiền contrat của Bầu
Long để Minh Vương đứng ra lập gánh hát lấy bảng hiệu là Đoàn cải lương Việt
Nam. Cô Thu trở thành Bầu Thu, một thời vang danh trong làng bầu gánh cải
lương, và Minh Vương có cơ hội chọn lọc tuồng tích, chọn lọc vai diễn để phát
triển tài nghệ của mình. Bầu Thu, người bạn đời của Minh Vương đã giúp anh lèo
lái gánh hát, giúp anh mọi điều kiện vật chất, giúp cả trong việc chọn vai tuồng,
cách thức diễn xuất. Sự thành công lúc này của Minh Vương là sự thành công của
một cao đồ dưới sự chỉ điểm của danh sư Bầu Thu, với kinh nghiệm làm xuất nhập
cảng mà lợi nhuận là mục tiêu chính yếu nên việc quảng cáo, liên lạc báo chí,
mua chuộc đào kép, bà Bầu Thu cũng có những chiêu thần sầu quỷ khốc giúp cho
tên tuổi Minh Vương được bay cao vời vợi trên nền trời sân khấu cải lương miền
Nam. Ở đoàn cải lương Việt Nam của bà Bầu Thu, Minh Vương đóng cặp chung với
Phượng Liên trong tuồng “Nắng Thu Về Ngõ Trúc”. Anh nhập vai Tạ Thập Cơ,
xuất sắc từ giọng ca đến diễn xuất, xứng kép xứng đào với Phượng Liên, một nữ
diễn viên đẹp sắc sảo, ca ngâm hơi vang lộng, được khán giả tán thưởng nồng nhiệt.
Cũng
ở tại đoàn này, Minh Vương có dịp diễn chung với Mỹ Châu, Ngọc Bích và Thanh
Nga (năm 1972, đoàn Thanh Minh Thanh Nga ngưng hoạt động).
Minh
Vương sống với cô Thu, có được 3 đứa con: 2 gái, 1 trai. Con gái lớn tên Nguyễn
Minh Thanh, hiện có gia đình, định cư tại Mỹ. Con gái thứ hai tên Nguyễn Minh
Ánh, có chồng thương buôn ở Việt Nam và con trai Út hiện đang học Đại Học Bách
Khoa ở Sài gòn.
MINH VƯƠNG LỆ THỦY |
Sau
năm 1975, Minh Vương hát cho đoàn cải lương Sàigòn 3, vở tuồng Mái Tóc
Người vợ trẻ với Thanh Kim Huệ, Tài Lương, Minh Tâm. Sau đó anh hát
cho đoàn Sống Chung vở Thạch Sanh Lý Thông. Anh đã qua các đoàn cải
lương Trung Hiếu, đoàn Hương Mùa Thu, sân khấu Tài Năng tiền thân của nhà hát
Trần Hữu Trang, đoàn Văn Công, đoàn 2/84, và các đoàn tỉnh như đoàn Tiếng Ca
Sông Cửu, đoàn Hương Tràm, đoàn Đất Mũi. . .
Ngoài
ra Minh Vương thu nhiều tuồng cải lương vidéo và được khán giả tán thưởng như
các tuồng: Chuyện Tình An Lộc Sơn, Sơn Nữ Phà Ca, Hàn Tín, Tiêu Anh Phụng,
Thoại Khanh Châu Tuấn, Nửa Bản Tình Ca, Tô Ánh Nguyệt, Đoạn Tuyệt, Lôi Vũ...
Tiếng ca của Minh Vương đã diễn tả được tâm trạng của nhân vật, nét diễn tự
nhiên của Minh Vương đã chinh phục được người xem. Anh thành công lớn qua vai
Nguyễn Trãi, cùng đóng chung với Ngọc Giàu trong vai Thị Lộ, vở Rạng Ngọc
Côn Sơn.
Sau
1975, khi Minh Vương hát ở đoàn cải lương Sàigòn 3, lương của đào, kép chánh
như Thành Được, Thanh Nga, Út Trà Ôn, Minh Vương, Mỹ Châu, Phượng Liên, Ngọc
Giàu. . . mỗi người chỉ lãnh 10 đồng bạc một xuất hát. Cơm thì ăn cơm hội (nấu
ăn chung cho toàn đoàn, đào, kép và công nhân sân khấu cũng một khẩu phần như
nhau). Khi hát ở rạp Long Vân, bà Thu theo đoàn với Minh Vương, bà phản đối việc
ăn cơm hội, buộc Minh Vương phải tranh đãu với Trưởng đoàn Hiếu (cán bộ của Sở
VHTT đến chỉ huy đoàn), Minh Vương không ăn cơm hội, đoàn phải trả cho Minh
Vương tiền cơm mỗi ngày là 10 đồng, bà Thu tuy không có hát hay có phận sự gì
trong đoàn, cũng được hưởng 10 đồng tiền cơm. Minh Vương không làm theo lời bà
Thu, liền bị bà mắng chưởi thậm tệ và tát tai Minh Vương trước mặt mọi người. Bữa
đó Minh Vương xấu hổ, đòi tự vận và không hát, nên đoàn phải nghỉ hát, trả tiền
vé lại cho khán giả.
Để
cho mọi việc được êm thắm, bầu Hiếu trả lương tối cho Minh Vương thêm 20 đồng
tiền cơm, cộng với số lương quy định là 10 đồng một xuất hát.
Chưa
tới một tháng sau, bà Thu buộc Minh Vương đòi tăng lương. Và được tăng lương
nhiều lần nhưng bà Thu vẫn giựt dây điều khiển Minh Vương, nhảy từ gánh hát này
qua gánh hát khác, đồng lương tới đoàn mới là tăng thêm lên hơn đoàn cũ. Minh
Vương bản tánh hiền lành ít nói, mọi việc quyết định đều nằm trong tay bà Thu.
Anh bị bạn bè cười là một anh hùng sợ vợ. Minh Vương nghe dư luận, khó chịu
nhưng không thể tranh cãi với ai, mà càng không dám tranh cãi với bà Thu, nên
anh chọn biện pháp đi hát chầu. Hát chầu cho đoàn tỉnh này năm, ba bữa, rồi đi
hát chầu cho đoàn khác bảy, tám hôm. Khi thì ở Nha Trang, khi ra Quảng Ngãi,
lúc thì trở về Cần Thơ, lúc lại tới Năm Căn, Đất Mũi. Khi đi hát chầu liên miên
như vậy, phải chịu cảnh ăn ở kham khổ như thời còn ăn quán ngủ đình, nhưng mỗi
xuất hát anh được trả cho một chỉ vàng. Bà Thu không thể bám theo chân của Minh
Vương, thả cho anh bay nhảy theo hát chầu, miễn là khi về Sàigòn anh phải nạp đủ
những khâu vàng mà bầu gánh trả cho anh. Minh Vương có nhiều thời gian xa khỏi
sự kềm chế của bà Thu, biết được cái tự do của một con người là vui như thế
nào, nên ngoài những lời nói ra nói vô của bạn bè, tự anh cũng cảm thấy không
thể mãi mãi là con cờ bằng vàng cho bà Thu sử dụng để gặt hái ra tiền. Việc phải
đến đã đến, Minh Vương và Bà Thu kéo nhau ra tòa ly dị. Cả cái cơ ngơi đồ sộ tại
đường Võ Văn Tần tức đường Trần Quý Cáp cũ, bà Thu chiếm hữu. Minh Vương ra khỏi
nhà, hai bàn tay trắng với nghề hát cải lương. Đó là đầu năm 1996.
Bà
Thu và Minh Vương cắn đắng nhau từ năm 1994, Minh Vương phải qua sống tạm nơi
nhà của cô em gái, địa chỉ số 10 đường Nguyễn Thị Tần, Phường 3 Quận 8. Lúc này
Minh Vương hát cho nhà hát Trần Hữu Trang và thu vidéo, thu nhập không được nhiều
như trước vì cải lương đang hồi sa sút trầm trọng.
Năm
1995, Minh Vương về Cà Mau quay vidéo 5 bài ca cổ, ca ngợi quê hương Cà Mau của
tác giả Trọng Nguyễn (cán bộ Sở VHTT Cà Mau), trong số đó có bài ca ngợi Siêu
thị của bà Bé Tư. Tháng sau, Minh Vương đi hát tăng cường cho một số đoàn lưu
diễn Cà Mau và anh nghỉ ở khách sạn thuộc Công Ty của bà Bé Tư. Dịp này, bà Bé
Tư có đến khách sạn, gặp Minh Vương để cám ơn về việc anh ca bài ca ngợi công
ty của bà. Từ chỗ quen biết đó, bà Bé Tư biết luôn gia cảnh của Minh Vương, ly
dị vợ, bị đuổi ra khỏi nhà, không có chỗ ở, phải ở tạm nhà của cô em gái, bà giới
thiệu Minh Vương với Công Ty Xây Dựng và Kinh Doanh nhà Gia Định để Minh Vương
mua góp căn nhà ở đường Nơ Trang Long, số 360F/10 Phường 13 Quận Bình Thạnh với
giá là 158 lượng vàng bốn số 9.
Minh
Vương đã trả tiền làm 4 đợt, đợt đầu, ngày 16/1/1997 (79 lượng vàng), đợt nhì,
ngày 10/3/97, trả 27,67 lượng vàng. Đợt 3, ngày 8/3/97, trả 10,57 lượng vàng và
đợt 4 ,28/8/98,trả 20,865 lượng. Báo chí Cà Mau và một số nhà tai mắt nêu lên
việc này, cho là bà bé Tư lấy tiền của cơ quan cho Minh Vương mua nhà, nào là
bà Bé Tư cuốn gỏi cuốn, luộc trứng, kho cá kho mang đến khách sạn cho Minh
Vương ăn…
Minh
Vương phải hai lần ra Tòa để chứng minh số vàng anh trả để mua nhà là của anh
chớ không phải của bà Bé Tư trao cho anh.
Theo
thơ trần tình của Minh Vương về vụ mua nhà, đăng trên báo Pháp Luật TPHCM thì số
tiền trả đợt đầu, ngày 16 tháng 1 năm 1997, 79 lượng vàng tương đương với số tiền
là 404 triệu,520.448 đồng. Từ 1995, Minh Vương ra khỏi nhà bà Thu với hai bàn
tay trắng, trong tình hình cải lương sa sút không hát được, vậy mà chưa tới hai
năm Minh Vương có dư một số tiền là hơn 404 triệu đồng. Gánh hát nào trả nổi số
lương đó? (trừ bà Bầu mới Bé Tư thay cho bà Bầu Thu, bà Bầu cũ của Minh Vương!)
Thông
qua chuyện đời của Khôi nguyên vọng cổ năm 1964 nghệ sĩ Minh Vương, ta thấy có
danh ca vọng cổ thì phải có soạn giả tài ba, có soạn giả phải có chế độ tự do
sáng tác, có nhiều rạp hát ở khắp các quận huyện thì khán giả mới đến xem đông
đảo, đường xá an ninh, thuận tiện giao thông, dân chúng được tự do kinh doanh
phát đạt thì sân khấu cải lương mới sống được. Sau năm 1975, dưới chế độ toàn
trị của đảng CS Miền Bắc, mọi thứ tự do đều bị ngăn cấm, dân kiếm sống đã khó
khăn thì văn học nghệ thuật khó mà được tự do phát triển.
Tuyển
chọn nhiều Chuong vàng vọng cổ chỉ là một thứ tung hỏa mù để che lấp tội ác
tiêu diệt một ngành nghệ thuật sân khấu của dân tộc.
Soạn giả Nguyễn Phương
Đầu
năm Đinh Dậu 2017
No comments:
Post a Comment