___
Nguyễn Thị Thanh Dương
Chị đến Mỹ muộn
màng và yêu cũng muộn màng. Các anh chị của chị đến Mỹ từ lâu, họ làm bảo lãnh
Cha Mẹ, rồi đến chị, diện anh chị em không được ưu tiên cao. Nên lá đơn bảo
lãnh nộp sở di trú khi chị 25 tuổi, đến 37 tuổi, chị mới được đặt chân đến Mỹ.
Mười hai năm chờ đợi ấy, chị đã phải
hi sinh rất nhiều, không dám yêu ai và chẳng dám đáp lại tình ai. Bố mẹ chị đã
răn đe: " Bất cứ giá nào cũng phải đợi đi Mỹ để đoàn tụ với gia đình, con
nhé. Không được yêu thương thằng nào hết!"
Chị vừa vâng lời Cha Mẹ, vừa mộng mơ, tưởng tượng. Thôi thì ráng hy sinh những tình cảm bên này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn một tấm chồng. Cỡ bác sĩ, kỹ sử trở lên, thà muộn mà ngon lành, còn hơn sớm, phải ở lại Việt-Nam, tình yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm thì vất vả cả đời. Và chị hớn hở chờ đợi.
Chị vừa vâng lời Cha Mẹ, vừa mộng mơ, tưởng tượng. Thôi thì ráng hy sinh những tình cảm bên này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn một tấm chồng. Cỡ bác sĩ, kỹ sử trở lên, thà muộn mà ngon lành, còn hơn sớm, phải ở lại Việt-Nam, tình yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm thì vất vả cả đời. Và chị hớn hở chờ đợi.
Qua Mỹ, đến nay đã 3 năm, chị đã sốt
cả ruột mà chưa tìm đâu ra một ông bác sĩ, hay kỹ sư. Vậy mà ở Việt-Nam, người
ta cứ đồn rằng qua Mỹ lấy chồng dễ ợt, bạn bè, hàng xóm khoe con em họ lấy chồng
có đủ loại bằng cấp nọ kia. Dù những cô gái may phước đó chẳng đẹp hơn chị là
bao! Thì chị cũng có quyền hy vọng như thế lắm chứ.
Bây giờ chị mới hiểu rằng, người Việt-Nam ở Mỹ, học hành, thành đạt thật đấy, nhưng con gái Việt-Nam ở đây không còn khan hiếm nữa, những thế hệ sau này đã lớn lên, đủ cung cấp nhu cầu tại chỗ, chưa kể thị trường trong nước Việt-Nam thì vô tận, các cô gái trẻ đẹp luôn khao khát. Chờ mong được Việt Kiều về cưới và mang họ qua Mỹ.
Thế nên chị lạc lỏng giữa dòng đời,
giữa xứ Mỹ và giữa cái tuổi không còn trẻ và chưa đủ già của chị...
Nước Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc làm bị hạn chế, chị không có tay nghề, kinh nghiệm, vốn liếng tiếng Anh dăm ba chữ. Nên chị xin việc hãng nào là cầm chắc bị hãng đó từ chối!!! Cuối cùng, chị cũng được một chỗ làm để kiếm ra tiền, khỏi sống nhờ vào các anh chị, là làm may cho một shop của người Việt-Nam, họ chỉ cần chị biết may, thế là đủ.
Nước Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc làm bị hạn chế, chị không có tay nghề, kinh nghiệm, vốn liếng tiếng Anh dăm ba chữ. Nên chị xin việc hãng nào là cầm chắc bị hãng đó từ chối!!! Cuối cùng, chị cũng được một chỗ làm để kiếm ra tiền, khỏi sống nhờ vào các anh chị, là làm may cho một shop của người Việt-Nam, họ chỉ cần chị biết may, thế là đủ.
Cả ngày chị cặm cụi vào cái máy may,
vào những miếng vải cắt sẵn, và dăm ba câu chuyện vặt với người bạn may bên cạnh,
dần dần cũng thành tẻ nhạt. Người ta có chồng có con, nên cứ nói đến đề tài này
là chị né.Vì sợ động vào nỗi đau âm thầm của chị. Chị chỉ còn một niềm vui duy
nhất đó là cuối tuần đi chợ, nhìn đủ các gương mặt lạ, những hàng hoá, thực phẩm
để nghĩ đến những món ăn ngon sẽ nấu, và nhất là xin được mấy tờ báo về nhà nằm
khểnh đọc chơi.
Ở thành phố này có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng xái xin đủ cho bằng được, thiếu một tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền thì cứ hưởng tối đa, không đọc được mục này thì cũng đọc mục nọ. Mà nếu không đọc gì hết cũng chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra lót bàn, đựng rác. Khi gọt trái cây, dùng để đựng vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước khi nhét vào thùng rác. Tiện lợi mọi bề!
Ở thành phố này có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng xái xin đủ cho bằng được, thiếu một tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền thì cứ hưởng tối đa, không đọc được mục này thì cũng đọc mục nọ. Mà nếu không đọc gì hết cũng chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra lót bàn, đựng rác. Khi gọt trái cây, dùng để đựng vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước khi nhét vào thùng rác. Tiện lợi mọi bề!
Thường thì chị hay đọc mục "Tìm
bạn bốn phương", thấy người ta đăng báo tìm bạn, chị cũng ham quá. Nhưng vẫn
thấy ngần ngại, sợ Cha Mẹ, anh chị biết rõ tâm địa chị đang muốn lấy chồng. Nên
chị chưa bao giờ có ý định đăng lên những lời khao khát của chính mình!
Một hôm, chị ngồi buồn chẳng biết làm
gì bèn gọt một trái xoài ăn chơi. Trải tờ báo ra bàn, chị vừa gọt vỏ xoài vừa
lơ đãng đọc một bài thơ nằm chình ình trên trang báo trước mặt chị. Bài thơ
than thân, trách phận và oán đời, nghe mà não nề của tác giả Phong-Trần!!!
Bài thơ đã làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong-Trần càng làm chị xúc động hơn, chị tưởng tượng nhà thơ Phong-Trần dày dạn gió sương, cũng đang là một kẻ cô đơn, mòn mỏi như chị. Chị muốn cắt bài thơ ra để dành, nhưng những vỏ xoài đã dính lên bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp cho nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của mình bị ngược đãi ơ hờ như thế. Nếu chị không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc bài thơ cho đỡ sốt ruột, thì có lẽ chẳng bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong-Trần cả!
Bài thơ đã làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong-Trần càng làm chị xúc động hơn, chị tưởng tượng nhà thơ Phong-Trần dày dạn gió sương, cũng đang là một kẻ cô đơn, mòn mỏi như chị. Chị muốn cắt bài thơ ra để dành, nhưng những vỏ xoài đã dính lên bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp cho nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của mình bị ngược đãi ơ hờ như thế. Nếu chị không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc bài thơ cho đỡ sốt ruột, thì có lẽ chẳng bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong-Trần cả!
Từ hôm ấy trở đi mỗi tuần chị đều
chăm chú giở từng trang, tờ báo mà chị đã gặp. Nhà thơ Phong-Trần trong lúc gọt
xoài, để tìm thơ anh. Chị đọc từng chữ, từng dòng và ghiền thơ anh hồi nào
không hay. Chị liền bạo gan, gọi phone tới toà soạn báo để hỏi thăm và xin số
điện thoại của nhà thơ Phong-Trần với tấm lòng ái mộ. Chị không ngờ, cú phone đầu
tiên chị gọi nhà thơ Phong-Trần được hân hoan đón nhận đến thế, nghe chị nói rất
thích thơ anh, nhà thơ Phong-Trần đã kiên nhẫn chép tay cả chục bài thơ và gởi
bằng bưu điện cho chị.
Từ đấy, ngành bưu điện đang hồi ế ẩm,
bỗng nhiên vớ được hai khách hàng chăm chỉ viết thư cho nhau, nhờ bưu điện chuyển
giùm. Và cũng từ đấy, mỗi lần thơ anh đăng lên báo, đều ghi tặng tên
chị phía dưới, những bài thơ anh dịu dàng hơn, tình tứ hơn, làm chị cảm động.
Chị mang đến shop may một trái tim vui đang yêu, chị dò dẫm để khoe khéo với bà thợ may bên cạnh mà chị từng trò chuyện mỗi ngày:
- Nhà chị có hay đọc báo chí Việt-Nam không?
- Có chứ, cả nhà cùng đọc, ở xứ Mỹ buồn thấy bà! Cuối tuần có báo chùa đọc cũng vui.
- Thế chị có đọc tờ báo không?
Bà kia cướp lời, nhanh nhẩu:
- Ðã nói là báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ có đủ cả. Một mặt ông xã đi lấy, một mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi còn lấy dư, ê hề chật cả nhà.
Bà kia cướp lời, nhanh nhẩu:
- Ðã nói là báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ có đủ cả. Một mặt ông xã đi lấy, một mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi còn lấy dư, ê hề chật cả nhà.
Chị vừa trách vừa thấp thỏm vui mừng:
- Lần sau lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người khác không có đọc, tội người ta. Thế chị có đọc thơ của nhà thơ Phong-Trần không?
Bà bạn may khựng lại:
- Ủa!...thằng đó là thằng nào?
- Sao chị bảo báo nào cũng đọc hết? Phong-Trần là một nhà thơ.
- Lần sau lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người khác không có đọc, tội người ta. Thế chị có đọc thơ của nhà thơ Phong-Trần không?
Bà bạn may khựng lại:
- Ủa!...thằng đó là thằng nào?
- Sao chị bảo báo nào cũng đọc hết? Phong-Trần là một nhà thơ.
Bà kia lại nhanh nhẩu:
- Ôi, ai hơi đâu để ý tới mục thơ thẩn, tôi chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần thôi hà! Thơ của thằng Phong-Trần hay của bất cứ ai cũng không nhằm nhò gì với tôi hết.
- Ôi, ai hơi đâu để ý tới mục thơ thẩn, tôi chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần thôi hà! Thơ của thằng Phong-Trần hay của bất cứ ai cũng không nhằm nhò gì với tôi hết.
Chị bực mình, nghĩ thầm: Con mẹ này
trước ở Việt-Nam chuyên mua bán ve chai lông vịt, trình độ đâu mà đọc văn
thơ?
Chị lại gói niềm riêng, đợi khi nào gặp được người
cao cấp hơn sẽ hỏi. Một hôm, có cặp vợ chồng, bạn của người anh, đến nhà chị
chơi, cả hai đều là kỹ sư điện, họ rất thân với gia đình chị, chị liền lân la đến
gần người vợ để chuyện trò:
- Chị ơi, chị có thích đọc thơ của nhà thơ Phong-Trần đăng trên báo Việt-Nam ở đây không?
Bà kỹ sư điện trả lời nhanh như điện:
- Chị không có thì giờ đọc mấy bài thơ đăng trên báo chợ đâu em ạ, thơ chẳng ra thơ, vần một nơi, ý một nẻo. Có đọc chỉ thêm bực mình.
Chị cố gỡ gạc, giải thích:
- Cũng tuỳ chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong-Trần có hồn lắm?
Bà kỹ sư vẫn chua ngoa:
- Ở Mỹ người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền. Đa số những đứa dở hơi mới rảnh để làm thơ đăng báo hay tự đăng trên net và cũng được gọi là thi sĩ, là nhà thơ.
- Cũng tuỳ chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong-Trần có hồn lắm?
Bà kỹ sư vẫn chua ngoa:
- Ở Mỹ người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền. Đa số những đứa dở hơi mới rảnh để làm thơ đăng báo hay tự đăng trên net và cũng được gọi là thi sĩ, là nhà thơ.
Rồi bà hùng hồn chỉ trích:
- Báo chí ở Mỹ ai làm chả được. Trước kia ở Việt-nam, là một anh thợ mổ thịt heo hay đạp xe 3 bánh, sang đây cũng có thể làm chủ báo ngon lành, bài vở lên internet lấy xuống, hay nhờ người dịch vớ vẩn từ báo Mỹ! Lại thêm có những đứa dở hơi như nhà thơ Phong-Trần nào đó, cặm cụi, bỏ thì giờ, sáng tác thơ văn, gởi về đóng góp cho tờ báo.
- Báo chí ở Mỹ ai làm chả được. Trước kia ở Việt-nam, là một anh thợ mổ thịt heo hay đạp xe 3 bánh, sang đây cũng có thể làm chủ báo ngon lành, bài vở lên internet lấy xuống, hay nhờ người dịch vớ vẩn từ báo Mỹ! Lại thêm có những đứa dở hơi như nhà thơ Phong-Trần nào đó, cặm cụi, bỏ thì giờ, sáng tác thơ văn, gởi về đóng góp cho tờ báo.
Chắc bà kỹ sư ngày xưa thất
tình một anh nhà báo. Nên mới cay cú thậm tệ giới này? Làm một tờ báo ít nhiều
cũng phải có kiến thức, hay năng khiếu về báo chí văn thơ, và nhất là lòng yêu
nghề thì tờ báo mới sống còn. Chị chẳng hơi đâu tranh luận vấn đề này làm gì.
Chị buồn quá, thế là từ thành phần
lao động đến trí thức, không ai biết đến nhà thơ Phong-Trần của chị cả! Nói gì
đến tên chị đứng khiêm nhường bé nhỏ dưới mỗi bài thơ của anh? Thì thôi, mình
chị đọc thơ anh, mình chị hãnh diện vậy.
Mối tình thơ của hai người kéo dài được
hơn hai chục số báo và mấy chục lá thư qua đường bưu điện, thì họ bắt đầu hẹn để
nhìn mặt nhau cho thoả lòng thương trộm nhớ thầm!!!
Lần đầu tiên gặp chị đã e ấp nhìn anh :
- Anh ơi, tại sao anh lấy bút hiệu Phong-Trần, nghe lãng mạn và bụi đời thế?
Lần đầu tiên gặp chị đã e ấp nhìn anh :
- Anh ơi, tại sao anh lấy bút hiệu Phong-Trần, nghe lãng mạn và bụi đời thế?
Anh trả lời thản nhiên:
- Có gì đâu, tên anh là Trần-Văn-Phong. Ðọc theo kiểu Mỹ là Phong-Trần.
- Có gì đâu, tên anh là Trần-Văn-Phong. Ðọc theo kiểu Mỹ là Phong-Trần.
Thì ra thế! tên anh Trần-Văn-Phong viết
ngược theo kiểu Mỹ thành Phong-Trần. Vô tình trở nên lãng mạn, rất thích hợp
cho một người làm thơ như anh. Chứ anh có phải cất công suy nghĩ cho cái bút hiệu
của mình đâu!?
Chị không đẹp lắm, độc thân và trinh nguyên, nhưng hơi cứng tuổi. Còn anh, hơn chị đúng 10 tuổi, đã một đời vợ, li dị, hai con theo Mẹ. Cho nên mấy năm nay anh trở thành người đàn ông độc thân, đi về một bóng, anh mong có một người đàn bà cho căn nhà ấm lên, cho lòng anh đỡ trống trải.
Thế là họ không có gì để chê nhau cả,
mối tình thơ đã đi đến đoạn kết mong muốn: Họ cưới nhau.
Chị lấy anh vì sau 3 năm sống ở
Mỹ, chị đã thực tế biết rằng khó có thể kiếm một tấm chồng bằng cấp Bác sĩ, kỹ
sư, khi trình độ học vấn thấp, tuổi đã xế chiều và nhan sắc chẳng có gì đáng nhớ.
Như món hàng ế ẩm, muốn bán được, cần phải hạ giá đến đại hạ giá! Chị đã ON
SALE cuộc đời chị, lấy một người chồng chẳng những đã không bằng cấp cao, mà
còn có một quá khứ lòng thòng vợ con. Dù anh hết tình hết nghĩa với người vợ,
nhưng hai đứa con, chắc vẫn đậu lại trong lòng anh nỗi thương nhớ xót xa!? Trái
tim anh có yêu chị cách mấy, đôi khi cũng tạm ngừng nghỉ để quay về với hai
con. Chị cũng đành thôi, ở đời có gì tuyệt đối đâu?
Khi đọc một bài thơ, không nhìn thấy
tác giả, bài thơ hay sẽ làm rung cảm lòng người, nhưng khi nhìn thấy tác giả
thì những rung cảm ấy sẽ giảm đi một ít, và nếu sống cùng một nhà với tác giả,
thì bài thơ bỗng trần trụi như đời thường của người đã sáng tác ra nó.
Những ngày, những tháng trôi qua, chị
không còn thấy thơ anh hay nữa. Dù mỗi khi đăng báo, anh vẫn đề tặng tên chị,
và chị đã ngạc nhiên không hiểu sao chị lại thay đổi nhanh chóng thế?
Nhà thơ Phong-Trần mà chị ngưỡng mộ và
yêu mến ngày nào, bây giờ là một thằng đàn ông suốt ngày cởi trần trùng trục
vào mùa Hè, anh mặc duy nhất cái quần đùi, đôi vai anh gầy, nhô lên, tưởng gío
cũng có thể lung lay. Vậy mà trước kia anh đã làm bài thơ với câu: Ðôi vai anh
sẽ là nơi em tựa. Thơ chỉ là bịa đặt và hoang tưởng.
Anh thường ngồi ở ghế, hai chân thô lỗ gác lên bàn, vừa nhâm nhi ly trà nóng vừa sáng tác thơ. Trong khi ngoài bếp, chị đang nấu nướng, dao thớt khua lên, chảo mỡ kêu ì xèo! Và trong phòng thì thằng cu Tí bé bỏng của hai người đang nằm o-oe chơi một mình. Nhưng khi nó khóc ré lên, chính anh là người phải vội vàng hạ chân xuống bàn, cắt đứt dòng tư tưởng đang tuôn ra để chạy lại tủ lạnh, lấy bình sữa hâm cho bớt lạnh, và nhét vô miệng thằng con, hoặc tệ hại hơn, anh phải thay diaper cho nó, mất nhiều thời gian hơn, xong việc thì ý thơ cũng bay xa. Tác phẩm bằng xương bằng thịt đã hại tác phẩm tinh thần của anh.
Có lần, anh ngồi lì để viết cho
xong một ý thơ, không chạy ra đáp ứng ngay tiếng khóc của thằng Cu Tí, thì vợ
anh đã lớn tiếng:
- Không ra mà lo cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ chết đói bây giờ!
Anh tức giận nhìn nàng thơ của anh, người đã từng dịu dàng, âu yếm đi vào những bài thơ của anh. Bây giờ hiện nguyên hình là một con mẹ khô cằn sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến chuyện thực tế, đói no, bạc tiền!!! Trước chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương hoa trong cuộc sống. Bây giờ những hương hoa ấy đã bay đi, đã trở thành những món phụ tùng không cần thiết.
- Không ra mà lo cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ chết đói bây giờ!
Anh tức giận nhìn nàng thơ của anh, người đã từng dịu dàng, âu yếm đi vào những bài thơ của anh. Bây giờ hiện nguyên hình là một con mẹ khô cằn sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến chuyện thực tế, đói no, bạc tiền!!! Trước chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương hoa trong cuộc sống. Bây giờ những hương hoa ấy đã bay đi, đã trở thành những món phụ tùng không cần thiết.
Một buổi sáng thức dậy, trời chuyển gió lạnh, lòng anh bỗng vu vơ cảm xúc yêu thương khi nhìn ra ngoài trời những chùm lá cây đẩy đưa trong gió. Anh thèm được rủ chị cùng anh đi sóng đôi trong cái không gian lạnh lẽo ấy để tìm hơi ấm của lòng nhau. Anh phấn khởi hỏi chị:
- Em ơi, ngoài kia đang gió lạnh. Em có biết anh đang mơ ước gì không?
Chị chu mỏ đáp sỗ sàng:
- Mơ ước có một tô phở nóng hổi với đầy đủ tương ớt, ngò gai, húng quế ngay trước mặt để ăn cho ấm người chứ gì!? Hôm nay tôi không có rảnh mà hầm xương nấu phở cho anh đâu!!!
Trời ơi! Khi không mà anh thấy lạnh cả lòng, lạnh hơn cả những chùm lá trên cây đang run lên vì gió lạnh ngoài kia!
Nhưng cũng chưa lạnh, chưa đau bằng những bài thơ anh đang viết dở dang, những ý thơ chợt đến anh đã ghi vội trên tờ giấy để trên bàn đã bị chị dọn dẹp vứt vô thùng rác thẳng tay, không một thắc mắc. Anh tiếc đứt ruột, trách chị, thì chị nghênh mặt lên, đe doạ:
- Quý hoá gì? Thơ với thẩn viết lung tung rác cả nhà. Lần sau, anh còn để bừa bộn tôi giục thùng rác nữa đó.
Anh đành ngậm ngùi, ra moi thùng rác
tìm lại mảnh giấy thơ lẫn lộn với những tã dơ của Cu Tí và những thứ rác rưới
khác. Chị đâu biết rằng một cảm xúc nào đó đã qua rồi đâu dễ gì tìm lại được, nếu
không ghi vội trên những mảnh giấy kia.
Thỉnh thoảng anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ trước, một đứa đã lớn, một đứa còn đang học high school. Thương con, anh muốn gởi cho nó một hai trăm làm quà. Nàng thơ của anh đã trề môi mai mỉa:
- Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền? Hãy làm bài thơ tặng nó cho có tình cảm. Thế mới là vô giá!!!
Anh đau xót và tủi quá, chẳng lẽ lại cãi nhau, lại ly dị? Cuộc đời đâu có đủ dài cho con người, để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như trò chơi trẻ con? Thích đó, rồi lại chán chê, muốn bỏ?!?
Anh vẫn đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng Cu Tí đem gởi bà ngoại chiều tối mới mang về. Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn và có con muộn. Nên muốn làm gấp rút, kiếm nhiều tiền để mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền tháng nào là mất luôn tháng đó.
Thỉnh thoảng anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ trước, một đứa đã lớn, một đứa còn đang học high school. Thương con, anh muốn gởi cho nó một hai trăm làm quà. Nàng thơ của anh đã trề môi mai mỉa:
- Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền? Hãy làm bài thơ tặng nó cho có tình cảm. Thế mới là vô giá!!!
Anh đau xót và tủi quá, chẳng lẽ lại cãi nhau, lại ly dị? Cuộc đời đâu có đủ dài cho con người, để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như trò chơi trẻ con? Thích đó, rồi lại chán chê, muốn bỏ?!?
Anh vẫn đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng Cu Tí đem gởi bà ngoại chiều tối mới mang về. Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn và có con muộn. Nên muốn làm gấp rút, kiếm nhiều tiền để mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền tháng nào là mất luôn tháng đó.
Ước mơ bình thường thế, mà trời cũng
không để yên! Anh bị lay off, anh không có tội gì cả, hãng không có việc nên phải
giảm bớt nhân viên! Vậy mà chị đổ tội cho anh:
- Sao bao nhiêu người hãng không lay off mà lại là anh? Chắc tại anh mải nghĩ thơ nghĩ thẩn làm không được việc, nên họ đuổi cho bõ ghét chứ gì?
- Sao bao nhiêu người hãng không lay off mà lại là anh? Chắc tại anh mải nghĩ thơ nghĩ thẩn làm không được việc, nên họ đuổi cho bõ ghét chứ gì?
Anh làm ngơ, chấp chi con đàn bà nông
cạn. Anh lo đi làm giấy tờ xin hưởng tiền thất nghiệp, rồi thủng thỉnh xin việc
làm sau. Nhân lúc rảnh rỗi bất đắc dĩ này anh nghỉ ngơi và làm thơ. Cuộc đời là
thế, ngay cả khi hoạn nạn, cay đắng cũng có thể thành thơ!
Nhưng con vợ không để anh yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguýt. Thấy anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào trang giấy, chị chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
- Anh đang làm gì đó?
Nhưng con vợ không để anh yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguýt. Thấy anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào trang giấy, chị chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
- Anh đang làm gì đó?
Anh cười, dù thật lòng chẳng muốn cười:
- Làm thơ!
Chị kêu lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
- Trời ơi, không lo viết đơn xin việc, mà còn ngồi làm thơ? Thơ có ăn được không? Có đổi ra tiền để đi chợ hay trả bill được không?
- Làm thơ!
Chị kêu lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
- Trời ơi, không lo viết đơn xin việc, mà còn ngồi làm thơ? Thơ có ăn được không? Có đổi ra tiền để đi chợ hay trả bill được không?
Anh kiên nhẫn:
- Tất nhiên là không. Nhưng nó cho anh một niềm vui.
- Tất nhiên là không. Nhưng nó cho anh một niềm vui.
Nàng thơ ngày nào của anh lồng lộn lên:
- Anh sống không có lập trường như thế à? Phải đối diện với thực tế, phải đi tìm việc làm chứ!?
Rồi chị nghẹn ngào như một người vợ đau khổ khi bị chồng phụ rẫy:
- Bây giờ tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn của anh tôi, chị ấy nói:Mấy đứa làm thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên mây.
- Anh sống không có lập trường như thế à? Phải đối diện với thực tế, phải đi tìm việc làm chứ!?
Rồi chị nghẹn ngào như một người vợ đau khổ khi bị chồng phụ rẫy:
- Bây giờ tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn của anh tôi, chị ấy nói:Mấy đứa làm thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên mây.
- Em cứ làm như nếu anh không
đi làm, thì vợ con chết đói ngay ấy. Ở Mỹ, chuyện lay off thất nghiệp đến với tất
cả mọi người, bất cứ lúc nào. Việc gì em phải đau khổ thế? Rồi anh cũng sẽ xin
được việc làm khác thôi, nhưng trong lúc rảnh rỗi, anh vẫn có quyền mơ mộng,
làm thơ. Thơ đến với anh những lúc hạnh phúc và cả khi thất vọng, khổ đau.
Nhìn vẻ mặt nghiêm trang của anh,
nhìn đôi mắt anh ngời sáng long lanh đang nhìn thẳng vào mắt chị với sự phản
kháng âm thầm mà mãnh liệt. Chị bỗng thấy khớp không dám làm ầm ĩ thêm nữa! Chị
chợt nhớ đã mấy lần Mẹ chị khuyên chị rằng: Mày có thằng chồng hiền lành,
thương vợ thương con là tốt phước rồi. Đừng hiếp đáp nó, con chó bị dồn đến nước
cùng cũng quay đầu lại cắn chủ. Nó mà tức giận quá, mất khôn, nó ly dị, thì mày
chỉ có nước ôm con nuôi tới già. Còn nó, nếu ham vui như người ta, về Việt-Nam
lấy vợ trẻ, vợ đẹp vẫn còn được.
Cho nên chị không dám quát tháo thêm
nữa, chị đành bỏ đi làm việc khác sau khi đã quẳng lại cho nhà thơ một cái
nguýt mắt đầy đanh đá.
Một mình anh ngồi lại, giận vợ nhưng
cũng thương vợ, đàn bà thường thực tế và nông cạn như thế. Anh hiểu, cái tình
yêu thơ mộng mới ngày nào đã thay thế bằng những lo âu, toan tính trong cuộc sống.
Chị quá lo cho gia đình, cho tương lai của con. Chị sợ tuổi đời của cả hai người
không đủ dài, để làm nên cơ nghiệp như chị mong muốn.
Trên tờ báo hàng tuần vẫn tiếp tục
đăng thơ anh, thơ anh vẫn tình tứ, vẫn ướt át. Nhưng nếu người ta để ý, thì dưới
mỗi bài thơ, anh không còn ghi lời tặng cho chị nữa.
Mục tiêu của đời chị là có tiền để
mua nhà, để dành lo cho tương lai thằng Cu Tí, làm đến cả đời chưa chắc xong.
Nên chị cần quái gì điều đó, cái tên chị có dính trên báo cũng chả làm túi tiền
chị tăng thêm một xu nào! Những bài thơ của anh đã trở thành vô
nghĩa. Và mối tình thơ của chị đã chết tự lúc nào.
Nguyễn
Thị Thanh Dương
1 comment:
Tình không đẹp như thơ nhưng thơ lại cứ yêu tình, chung thủy với tình do vậy mà thơ như những giải mây đi vào một vùng trời mênh mông, vô tận.
Post a Comment