_
Đã hơn 20 năm
tôi chưa một lần trở lại quê nhà, dù bao lần hẹn với người thân trong gia đình
ít nhất cũng phải có một lần gặp lại. Nếu không có Đại Hội trường xưa của
tôi tổ chức tại Melbourne bên Úc châu, tháp tùng nhiều anh chị đồng môn tham dự
thì chắc chuyện về thăm gia đình cũng chỉ là một giấc mơ.
Khi ngồi trong
phi cơ chờ hạ cánh xuống phi trường TSN, tôi cảm thấy hơi hồi hộp dù đã nhủ
lòng không có gì phải lo lắng. Nỗi vui mừng khi sắp gặp lại gia đình, chuẩn bị
sẵn những gì phải "đối phó" sau nhiều năm dài xa quê hương. Suốt đoạn
đường bay khá dài, trò chuyện cùng một cặp vợ chồng trẻ cũng từ Hoà Lan về thăm
nhà. Tuy mới quen, khi biết đây là lần đầu tôi trở lại quê hương anh ta
tò mò hỏi
- Chị có thể
cho biết cảm tưởng của chị khi về lại quê nhà?
Cảm tưởng ư?
Nhiều lắm chứ, cả nỗi suy nghĩ vẩn vơ nếu như có điều gì không vui xảy tới. Suy
nghĩ một chút tôi trả lời anh ta:
- Ngày tôi đi
trời còn mờ sương, nay trở về trời đã hoàng hôn. Như một giấc mộng dài. Tôi
đang nghĩ đến gia đình, đến niềm vui xum họp sau hơn hai mươi năm mà may mắn là
các anh, chị tôi còn sống cả.
Đặt chân xuống
phi trường Tân Sơn Nhất, tôi như chạm mặt với một bức tường băng giá, xa lạ và
lòng lại tràn ngập nỗi lo sợ vẩn vơ. Mãi tới khi qua khỏi những thủ tục phiền
phức, có người muốn tôi đưa một chút gì đó mà họ gọi là "chút quà cho quê
hương", ra ngoài gặp lại bao người thân trong gia đình tôi mới thở phào nhẹ
nhõm. Tuy nhiên, những ngày về thăm nhà tôi không ghi lại gì ngoài những khúc
phim và hình ảnh, nhưng trong tâm tôi mỗi một nơi tôi đến đã ghi đậm bao nhiêu
cảm xúc buồn, vui ...
Sài Gòn
Hơn hai mươi
năm trở lại, Sài Gòn về đêm trời vẫn oi bức. Vây xung quanh là người thân ra
đón, tôi ngỡ ngàng nhìn mấy đứa cháu nay cũng già đi với thời gian, trách nào
tôi cũng già đi khi mấy đứa cháu ngày tôi ra đi mới ngoài hai mươi tuổi, nay
tôi về đã ngoài bốn mươi, đã lập gia đình và với một thế hệ tiếp nối chào đời
có vài đứa cháu đã tốt nghiệp Đại Học. Tình cảm của tôi đối với các anh, chị
trong nhà, với lũ cháu thân yêu ngày nào không thấy có chút đổi thay
trong mắt nhìn của tôi, lại cảm thương hơn khi hiểu những đưá cháu một thời
sinh ra đã chịu bao thiệt thòi trong nỗi nhọc nhằn, đắng cay với cha mẹ sau
ngày chiến tranh chấm dứt, hiện tại vẫn vất vả để mưu sinh.
Đêm Sài Gòn
đèn màu chấp chới, những con đường mới mở sau này thuộc vùng phi trường TSN
ngày xưa, khi tôi ra đi chỉ thưa thớt nhà cửa và đồng ruộng, nay thành phố xá
nhà cửa san sát. Người ta đi đâu mà đông vậy? Lòng đường chật chội hay trước
hàng hiên của mỗi căn nhà, hình như vẫn bán buôn một thứ gì đó. Sau này tôi mới
nhận ra vẻ phồn thịnh này tiêu biểu cho một nền kinh tế èo uột, người dân bán
mua, mua bán lẫn nhau để tìm cách sống, giữa một thành phố vật giá leo thang,
khó tìm nổi công ăn việc làm vững chắc.
Chiếc taxi đưa
tôi trở về căn nhà của người anh cả trong một ngõ hẻm chật không thể nào rộng
hơn được nữa. Tuy là hẻm nhỏ nhưng ven bờ rào vẫn phảng phất mùi nguyệt quế, trời
nhấp nháy sao đêm, dịu bớt đi chút nóng bức và khói bụi của thành phố đông người.
Anh chị tôi vẫn còn thức chờ tôi về, tôi cứ nhớ mãi một ngày nửa đêm về sáng
cách đây hơn 22 năm, khi tiễn tôi và gia đình ra đi anh đã bật lên khóc hù hụ .
Nay trở về, anh tôi già quá, miệng móm mém vì mất đi những chiếc răng, lần
này thì anh không khóc mà chỉ lặng nhìn cô em út sau hơn hai mươi năm biền biệt
cách xa . . .
Đêm đầu tiên về
thăm nhà, Sài Gòn ban đêm vẫn hầm hập nóng dù máy lạnh chạy rì rì và quạt quay
đều đều. Nhà chật nên tôi rủ bà chị ruột ngủ chung cho vui, chị em rù rì chuyện
trò mãi mà chưa ngủ được, bao nhiêu buồn vui hơn hai mươi năm xa cách. Chị già
đi nhiều, thanh âm của "cô giáo gìa" trầm đi như nốt nhạc buồn.
Tuy vậy tôi vẫn nhìn ra sự thương yêu, trìu mến săn sóc của chị dành cho
tôi như ngày còn thơ dại, và nhớ cả thời gian chị em tôi phải vật lộn để mưu
sinh giữa chợ đời đen bạc. Chị là nhân vật cô giáo bán chợ Trời trong câu chuyện
"Lá Thư Gửi Thầy Giáo Cũ" tôi viết đã lâu, bóng dáng một cô giáo gầy
gò, ngồi bệt trên mảnh ny lông trải bên hiên phố chợ vẫn còn đó. Với anh, chị
trong nhà, mỗi người đều được tôi ghi lại thành một câu chuyện, mà sao chuyện
nào cũng buồn đến rơi lệ ...
Mấy lần thức
giấc trong đêm, sớm tinh sương tôi mới chập chờn đi vào giấc ngủ. Ấy là nhờ tiếng
chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh từ nhà hàng xóm vọng sang, hình như trong các
ngõ hẻm ở Sài Gòn luôn luôn có tiếng động, không trẻ con chạy chơi thì cũng là
tiếng rao hàng của mấy gánh hàng rong. Nhớ tiếng rao hàng của Sài Gòn năm nao,
tôi lại chợt nhớ đến một người bạn cũ, cái thời "cạn ao thì bèo xuống đất"
ở nhiều thập niên trước, chúng tôi gặp nhau bên lề đường gió bụi để ... mưu
sinh. Chị kể lúc kinh tế gia đình xuống đã phải bưng thúng xôi rao bán khắp
hang cùng ngõ hẻm. Ngặt từ bé đến lớn chị là "em là gái trong song cửa",
nên đâu biết rao hàng làm sao. Bưng thúng xôi đi vào con ngõ tối om, nhìn trước
nhìn sau không thấy ai chị mới dám cất tiếng rao "Ai ăn xôi không?"
thì tự nhiên nghẹn lời, nước mắt rơi lả chả. Chao ơi là tội, trở về Sài Gòn hôm
nay, nhớ tiếng rao hàng của những người mua gánh bán bưng, tôi lại nhớ đến
chị ấy, không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu?
Bình minh Sài
Gòn trời oi bức, mới rạng đông mà người rít chịt mồ hôi báo hiệu một ngày nắng
gắt. Chị tôi rủ đi ra đầu ngõ ăn phở, tôi muốn thưởng thức lại hương vị Phở Sài
Gòn năm xưa xem thế nào. Cũng tạm được, chỉ buồn cười là phở Sài Gòn bây giờ lại
ăn với rau ngò om, loại rau chỉ dùng để nấu canh chua. Cố nuốt cho xong tô phở
nhỏ tôi hiểu đất Sài Gòn vật giá đắt đỏ, muốn bán một tô phở cho người bình dân
dĩ nhiên là chủ tiệm phải tính toán kỹ chi ly từng miếng thịt. Tôi không quan
tâm về miếng ăn và rất cảm thông khi hoàn cảnh sống chỉ cho phép ... có thế
thôi!
Quay về nhà bần
thần trước mấy va ly đồ đạc ngổn ngang, tôi lại phải chuẩn bị hành lý cho chuyến
bay tối qua Úc. Úc đang vào thu, Sài Gòn lại nóng chảy mỡ, trong va ly chèn đầy
nhóc quần áo ấm , tới đây tôi thấy toát mồ hôi, mệt rã rời ... khi nghĩ tới
lúc phải bước chân vào phi trường, với những thủ tục hải quan rắc rối . . .
Hai tuần lễ ở
Úc, hội ngộ Trường Xưa với các anh, chị đồng môn, được hưởng những ngày vui thật
trọn vẹn với các anh, chị dù rất nhiều người tôi chưa gặp bao giờ. Nửa tháng trời
ở bên Úc, là đúng nửa tháng tôi được thăm nửa vòng nước Úc. Đó là người ta bảo vậy,
vì các tiểu bang của Úc đều nằm lòng vòng theo bờ biển, ở giữa là sa mạc nắng
cháy nên nước Úc rộng thênh thang mà không có người ở.
Thế rồi sau
chuyến Úc Du, sau đại hội được lang thang trên các nẻo đường, từ Melbourne một
ngày bốn mùa nóng lạnh nắng mưa, đến Sydney khí hậu ấm áp mặc dù bấy giờ là mùa
thu nước Úc, chúng tôi còn được đến Brisbane biển xanh trời xanh tuyệt đẹp.Hai
tuần rong chơi để tận mắt nhìn thấy sự hiền hoà, thân ái của người bản xứ, được
gặp lại hai người bạn cũ cùng xóm từ những ngày còn nhỏ, quay về Sài Gòn đến
phi trường TSN, trong lòng lại luấn quấn một điều gì mù mờ không rõ rệt
Ai ngờ lần trở về này lại là lần cuối cùng anh em tôi được sống gần nhau để nói
nốt những câu chuyện dở dang ...
Ngoài những
chuyến du lịch ngắn ngày, tôi thích về nhà với anh tôi, tuy căn nhà chật chội
những cảm thấy được che chở ấm áp. Chị gái tôi từ Long Xuyên lên. Buổi chiều
khi cơm nước xong, một lũ cháu lớn, nhỏ ngồi vây quanh nghe các ông, bà nói
chuyện. Riêng tôi kể chuyện về nước Mỹ xa xôi, chuyện của đời thường với sự thật
100% về cái xứ sở mà mọi người cứ tưởng chỉ toàn "mật và sữa".
Nước Mỹ đâu phải thiên đàng nhưng nó cũng không phải hoả ngục, cũng "tay
làm hàm nhai" nhưng cơ hội thường mở cửa cho người chịu khó và kiên nhẫn sống
một cách lương thiện, được bảo vệ và hít thở bầu không khí tự do tuyệt vời.
Thời gian đó sức
khoẻ anh tôi đã xuống dốc, với những đêm khó ngủ vì chứng tim mạch hành hạ. Nhờ
có tôi về thăm, nên anh có vẻ khoẻ lên nên cả nhà ai cũng mừng, những bữa cơm
đơn sơ trong gia đình ngon hơn nhà hàng dù thật là giản dị. Lại nhớ đến những bữa
cơm dưa cà của mẹ tôi thời thơ ấu, cái vui không phải vì "cao lương mỷ vị"
mà vì cái tình đầm ấm của một gia đình đoàn tụ.
Sau bữa cơm tối
cả nhà quây quần bên nhau nói chuyện cũ.Trong mỗi hồi tưởng, anh nhắc nhiều về
căn nhà cũ nơi chôn nhau cắt rốn ở phố Cửa Tiền, Sơn Tây, những lần hành quân
giày "sault" bê bết bùn sình, và cả những khuôn mặt đồng nghiệp báo
chí, hay đồng đội cùng làm việc chung ngày xưa trong đời lính, anh tôi chẳng
quên ai. Mấy đứa cháu nội, ngoại của anh lại há hốc mồm ra nghe các ông bà nói
chuyện. Đối với chúng cũng giống như chuyện đời xưa, mà nào có xa xôi gì, chỉ mấy
chục năm trước thôi sao lại giống như chuyện cổ tích. Việt Nam bây giờ không
còn khói lửa chiến tranh, mà chỉ còn là khói bụi ngập đường, đâu tìm ra được
cái êm đềm của "đường xưa lối cũ" với những tà áo dài tung bay trên
hè phố.
Chuyện hai chị
em tôi cũng buồn. Chị kể cảnh một cô giáo nghèo, lắm khi trên mâm cơm chỉ duy
nhất có một cái hột vịt giầm nước mắm để chấm rau. Mỗi năm tiêu chuẩn phân phối
mỗi người 2 mét vải, may được cái quần thì không có cái áo. Mấy đưá cháu lại
hít hà, miệng há ra vì ngạc nhiên quá đỗi. Một đưá cháu ngoại của anh quay qua
hỏi mẹ nó:
- Thật không mẹ?
Mẹ nó là đưá cháu
gái gọi tôi bằng cô, gật đầu trả lời con giọng cũng bùi ngùi:
- Thật đó, tại
bây giờ con no đủ rồi nên không thấy được cảnh đó đâu. Hồi đó bằng tuổi con mẹ
đã phải nghỉ học ở nhà vì trường huyện xa quá, phải học thêu may đan lát tiếp
ông bà ngoại kiếm cơm". Rồi nó đánh trống lảng: "Thôi con đừng hỏi nữa
..."
Giọng cháu nghẹn
ngào vì nỗi khổ ngày xưa hiện về như một cuộn phim buồn. Tôi nhìn cháu mà đứt
ruột, nghèo là cái tội đổ lên đầu người dân một thời tưởng như chuyện cổ tích.
Những đưá cháu ngoan ngoãn của các anh, chị tôi, trưởng thành từ cái khổ, như
cái ách của con trâu cầy buộc lên cổ người trên thửa ruộng cằn khô.
Thời gian thấm
thoát qua đi, một năm rưỡi trôi qua là lúc anh tôi cũng "rũ bụi trần"
về với ông bà, cha mẹ bên kia thế giới. Buồn vì mất đi người anh thân yêu, ngày
tôi còn nhỏ anh phụ mẹ nuôi em, một người anh đúng nghĩa "Quyền Huynh Thế
Phụ", mỗi lần nghĩ về anh tôi lại chảy nước mắt. Nhận lá thư chia buồn của
một người bạn, đọc mấy câu "Sống Gửi Thác Về" tôi chợt giựt mình
"ngộ" ra chữ VỀ nghĩ ngợi mãi và vơi bớt nỗi buồn, thì ra anh tôi chỉ
Về với mẹ, với cha, với cội nguồn, "Lá Rụng Về Cội" là thế!
Nghe gia đình
kể lại trong những ngày cuối đời, lúc tỉnh lúc mê anh đã nhiều lần nhìn về di ảnh
của mẹ tôi trên bàn thờ mà gọi "mẹ, mẹ" biết bao nhiêu lần. Chẳng biết
người ta thế nào, nhưng với anh thì tôi cho rằng từ thuở còn trẻ dại cho tới
khi trưởng thành, anh luôn gần gũi mẹ nên lúc nào cũng con đâu mẹ đó. Dân nhà
binh, mỗi lần thuyên chuyển đi đơn vị mới anh tôi luôn mang mẹ và em theo, bởi
vậy đời tôi cũng trôi nổi theo bước chân người anh là Lính, biết nhiều nơi chốn
hay nếp sống của người dân miền sông nước.
Ngoài ra trong
những ngày cuối đời ấy anh cũng hay gọi tên các em, trong khi đã có một bầy
con, cháu bộn bề. Phải chăng đến giây phút ấy trong tâm hồn mỗi người, vẫn có
những lúc quay về quá khứ, nhớ về mái ấm gia đình trong đó có hình bóng những
người thân yêu của mình. Chết chưa phải là hết, triết lý theo tôn giáo nào thì
chết chỉ có nghĩa là tiếp nối về một nơi nào đó Bình An, rất mù mờ như khói
sương. Tôi vẫn nghĩ như vậy và hy vọng anh tôi gặp lại những người thân, những
đồng đội của anh đã yên nghỉ từ lâu.
Nhắc chuyện cũ
về mẹ tôi, năm mẹ mất cũng là những năm gạo châu củi quế, hôm nào mấy đứa cháu
đi "ruộng" đem về được rổ ốc béo là bà biến chế ngay thành món ốc nấu
khế cho cả nhà được một bữa ngon cơm. Khi mẹ mất, chị em tôi tìm và giữ
được hai chiếc áo cũ của mẹ, lẳng lặng chia nhau kỷ vật thân thương nhất của
người mẹ hiền tảo tần chắt chiu nuôi con ăn học. Chị tôi giữ cái áo cánh nâu
còn hằn những nếp nhăn bạc màu hai bên nách áo, tôi giữ chiếc áo dài màu cánh
dán mẹ tôi vẫn mặc đi nhà thờ, những đường chỉ cũng bạc màu với thời gian.
Ngày anh tôi mất,
chị nghĩ đến chuyện giao lại tấm áo kỷ niệm của mẹ cho đưá cháu đích tôn của mẹ
tôi, đứa con trai đầu lòng của anh tôi mà bà nội đã nâng như trứng, hứng như
hoa khi cháu mới chào đời, nay cũng là một nhà giáo. Tấm áo ấy được phủ lên
quan tài của anh tôi, như muốn nói với anh rằng: "Cuối cùng thì mẹ cũng
đón anh về, anh cũng được ôm trong vòng tay yêu thương của mẹ."
Nguyên Nhung
( muà
đông-2015)
No comments:
Post a Comment