_______________
Chân thành cám ơn chị Lý Mỹ Hạnh đã chuyển đến TH bài viết nầy
HTTL
NGUYỄN PHƯƠNG
Tiếng
Việt lang thang trên dòng sân khấu cải lương.
Tôi không phải là một
nhà nghiên cứu văn học sử, cũng không là một người trong giới sư phạm chuyên
dạy văn phạm hoặc dạy cách viết thơ, văn, từ ngữ... tôi chỉ là một soạn giả
viết tuồng sân khấu cải lương nên những gì tôi ghi lại liên quan tới « sự thay hình
đổi dạng của Tiếng Việt trên dòng sân khấu cải lương trong vòng 100 năm qua »,
chỉ là một chút tư liệu đóng góp thêm để quí vị học giả và chuyên viên biên
khảo có tài liệu tham khảo để sử dụng trong khi viết về văn học sử Việt Nam
trong thế kỷ qua.
Nhiều người có thành
kiến cho là các tác phẩm sân khấu cải lương chỉ là những thứ văn chương bình
dân dành cho độc giả và khán giả bình dân, không được dự vào dòng văn học sử
của nước nhà. Đó là những ý kiến thiên lệch, phiếm diện vì người có ý kiến đó
chưa đọc được nhiều tác phẩm sân khấu, chưa xem được nhiều tuồng hát, có khi
chỉ xem được một hai vở tuồng của các đoàn hát nhỏ ở tỉnh lẻ mà đã vội phê
bình, giống như ngày trước có nhiều học giả đã khẳng định rằng « văn học miền
Nam vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chỉ có lưu hành vài tờ báo đăng thông
tư, nghị định của chánh quyền thuộc địa, chỉ có dịch mấy quyển truyện Tàu tầm
thường cho những độc giả cũng tầm thường! » Nhận xét nầy không đúng vì hai nhà
học giả Nguyễn Văn Y và Nguyễn Văn Trung đã mở một cuộc triển lãm sách năm 1965
tại Saigon, trưng bày nhiều tác phẩm về
dịch thuật, về các sách quốc ngữ được chuyển ra Pháp ngữ và ngược lại, nhiều
tài liệu nghiên cứu văn học của các học
giả miền Nam. nhiều sách, tiểu thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh
Của, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Chánh Chiếu, Đặng Công Danh... Tôi
may mắn sưu tầm được một bảng thư tịch về hơn một trăm tuồng hát đã được các
nhà xuất bản Xưa Nay, Phạm Văn Thìn, Saigon
Imprimerie d' Union ấn hành từ năm 1905 đến 1937.
Sở dĩ tôi nhắc đến
các nhà văn và các tác phẩm văn học vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 là vì
nghệ thuật sân khấu là một nghệ thuật tổng hợp các ngành văn học nghệ thuật
khác như văn, thơ, âm nhạc, ca múa, hội họa, kiến trúc và các kỹ thuật thuộc
lãnh vực nghe, nhìn, ánh sáng, âm thanh...v...v.
Những thành tựu của
các ngành văn học nghệ thuật như văn, thơ, âm nhạc, ca múa, hội họa... đều được
các soạn giả và nghệ sĩ trình diễn đem áp dụng vào các tác phẩm sân khấu, vì
vậy khi nghiên cứu về văn học tổng thể, người ta sẽ thấy một sự tương quan chặt
chẽ giữa nghệ thuật sân khấu và các loại hình nghệ thuật văn, thơ, âm nhạc, ca
múa...
Tuy nhiên cũng cần
nói rõ là không phải bất cứ quyển tiểu thuyết nào cũng có thể đưa lên sân khấu
để trình diễn được và cũng cần nên biết rằng một vở tuồng cải lương, hát bội
hay kịch nói cũng chỉ đưa ra được một khía cạnh nào đó của cốt truyện hoặc một
nhân vật trung tâm nào đó của cuốn tiều thuyết mà thôi.
Các soạn giả cải
lương, hát bội và kịch nói cũng có sáng tác ra những chuyện kịch, những tuồng
cải lương hay mà không dựa vào một quyển tiểu thuyết.
Để ghi nhận « Tiếng
Việt trên sân khấu Cải Lương trong vòng một thế kỷ qua », tôi xin mời quí vị
quan sát sự thay đổi văn phong trong tuồng hát và sự tác động của truyện Tàu,
của tiểu thuyết Pháp và tiểu thuyết Việt Nam trong lãnh vực sáng tác của các
soạn giả cải lương.
Trong
những thập niên 20, 30, lối văn biền ngẩu và văn vần được áp dụng trong các tác
phẩm sân khấu cải lương vì nói theo một cách khác thì nghệ thuật hát cải lương
nối tiếp con đường của nghệ thuật sân khấu hát bội.
Nhân vật tuồng hát
bội xưng danh : ( tuồng Hộ Sanh Đàn
của cụ Đào Tấn)
Lan
Anh : ( Xướng)
Trăng lồng, gió lộng, thú vô biên
Một động đào hoa, một cõi riêng
Dám hỏi phúc này tu mấy
kiếp?
Phu quân ơi! Ngày
ngày xiêm áo đổi bao phen.
( Lối) Cùng Tiết gia công tử vầy duyên
Thiếp Trần thị, Lan Anh
là hiệu
Từ phu tướng về kinh
viếng mộ
Chốn buồng the vò võ thâu canh
Thương oanh vàng thánh thót đầu cành
Xót liễu biếc loi thoi trước ngõ
Tuồng Bội Phu
Quả Báo, một tuồng tâm lý xã hội của soạn
giả Phạm Công Bình năm 1923.
Nhân vật Hai Vận xưng
tên :
Thuận Thành là quê quán
Ta, con đại
phú gia
Tay ăn chơi
bốn biển là nhà
Danh tiếng khắp, tên ta Hai Vận
Tuổi đã lớn song chưa
danh phận
Tay ròng nghề sớm mận tối
đào...
Tuồng Hát Bội hay Cải
Lương tuồng Tàu hay tuồng Xã Hội, trong những năm 1920 đến 1936 đều dùng lối
văn vần trong những lúc xưng danh hoặc các đoạn đối thoại quan trọng giữa nhân
vật chánh diện và nhân vật phản diện. Còn những đoạn nói lối ngắn khác như để
dẫn chuyện thì dùng văn xuôi bình thường.
Mãi đến năm 1936,
soạn giả Tư Trang viết vở Đời Cô Lựu,
ông vẫn còn viết những đoạn văn vừa có tính chất sáo ngữ vừa có những đoạn văn
vần với nhau, tuy rằng hình thức câu văn đã đi gần đến lối viết văn xuôi :
Hai Thành nói với cô
Lựu :
Biển
cả mò nghêu, rừng sâu đập đá, bao nhiêu năm đã thay đổi quan niệm của tôi nay
là một thằng Thành đội trên đầu 19 năm tù chớ chẳng phải là thằng Thành quá tin
đời là chân thật như ngày xưa. Cô ơi, cô nào có biết cho tôi lắm khi chan cơm
bằng nước mắt, tắm mát bằng mồ hôi, nai lưng hứng những trận đá thoi, cắm cổ
chịu đủ lằn roi vọt, dẫu rằng gian lao khổ sở cực nhục trăm điều mà canh cánh
bên lòng, lúc nào cũng nhớ tới hai tiếng «
vợ con », là cái nguồn an ủi của những kẻ trong lúc khốn cùng, nhìn cái
chết sướng hơn mà vẫn gượng sống.
Cùng
bước chân ra khỏi cửa, tôi thì chui đầu vào chốn khám đường tối tăm bẩn thỉu,
mà cô thì đi vào một tòa nhà mát mẻ cao sang. Rồi từ đấy trở đi những lúc tôi
nuốt những cơm hẩm cá ươn thì cô lại nếm cao lương mỹ vị. Hai cổ tay tôi đã
hưởng thọ những xiềng gông xích sắt thì hai cổ tay cô cũng thay vào những chuỗi
ngọc xuyến vàng. »
Soạn giả Phạm Công
Bình đã đưa tiếng Pháp xen lẫn với tiếng Việt trong bài ca để kiêu ngạo bọn
công tử bột có chút đỉnh Tây học, đưa tiếng Tây ra để loè người và dụ dỗ gái tơ
trong tuồng Tối độc Phụ Nhơn Tâm năm
1923 :
Bài ca Tứ đại oán.
Thương! ỷ thuơng, không ngớt cơn sầu
Sông Ngân dạ muốn bắc cầu
Trách bấy nguời chẳng có
lòng em - mê ( aimer)
Năm canh sầu ủ ê,
Cái niềm phu thê
Sao mà muốn kít - tê (
quitter) hỡi nàng,
Vì tại ai mà la luy - nơ ( la
lune) soi tỏ dạ,
Mấy lồi nguyền
Tôi hổ với nuớc non
Son hỡi môi son
Bổ - cu ( beaucoup) ròng
rơi lụy
Phát - sê( fâcher) người
không nghĩ
đôi đứa mình còn bớ - tí(
petit)
Trách trời vội rẽ phân đôi
đàng!
……………………………………
..
Lối viết đưa tiếng
Tây vào bài ca hay đối thoại trong tuồng của ông Phạm Công Bình là nhắm vào
việc đả kích những kẻ biết chút đỉnh tiếng Tây rồi làm phách, loè người chớ
không phải ý của tác giả là muốn pha trộn tiếng Tây với tiếng Việt trong tuồng
hát. Tuy nhiên khán giả không thưởng thức lối đả kích nầy nên ông Phạm Công
Bình và các soạn giả khác không dùng lối viết văn như đã kể trên nữa.
Nên biết là trong
những năm cuối thế kỷ 19, Pháp bãi bỏ lối thi hương, bỏ lối thi dùng chữ nho và
chữ nôm, thay vào đó là chữ quốc ngữ, xem đó là một phương tiện giao tế giữa
nhà cầm quyền Pháp với dân chúng, giữa dân chúng với nhau. Việc này đã ảnh
huởng tai hại không nhỏ đến ngành hát bội vì văn chương hát bội vốn có nhiều
chữ nho, nhiều điển tích Tàu. Khi bãi bỏ chử nho trong các trường học và trong
việc giao tiếp thì người dân đua nhau học chữ quốc ngữ thay cho chữ Nho vốn là
một thứ chữ rất khó học, khó nhớ, khó hiểu.
Lan
Anh ( tuồng Hộ Sanh Đàn của cụ Đào Tấn )
Nhàn
lai phong nguyệt cộng vô biên
Nhất động đào hoa biệt hữu
thiên,
Vi vấn kỷ sinh tu đắc đáo
La thường túy trục nhật
phiên phiên.
( dịch : ) Thanh nhàn trăng gió thú vô biên
Một động hoa đào cõi trời
riêng
Hỏi mấy kiếp tu mà được như
thế ?
Quần là áo lượt ngày ngày thay
đổi.
Hát bội vì thế ngày
càng ít khán giả, nghệ thuật sân khấu cải lương tuy sinh sau đẻ muộn nhưng nhờ
ở sự phát triển chữ quốc ngữ, nhờ ở sự mở mang dân trí, nhiều người biết đọc
biết viết nên người ta đọc báo, xem truyện, xem tiểu thuyết cũng nhiều hơn lên
và họ cũng xem hát cải lương vì mỗi tuồng cải lương là một câu chuyện được thu
ngắn và cô đọng lại, thích hợp với cảm quan của khán giả.
Trong giai đoạn này ở
miền Nam có rất nhiều truyện Tàu được dịch ra chữ quốc ngữ. Gần như trong mỗi
nhà có người biết chữ quốc ngữ thì đều có đọc truyện Tam Quốc Chí hay truyện Đông
Chu Liệt Quốc hoặc nhiều truyện Tàu khác như Tây Du Tam Tạng, đông Du Bát Tiên, hoặc truyện Ngũ Hổ Bình Tây, Thuyết đường… Truyện Tàu cũng có những chuyện nhảm
nhí nhưng hầu hết những truyện Tàu được đa số dân chúng thích như Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc ,
được xem như là những túi khôn để lấy đó mà ứng xử với người đời, soi gương
tốt, răn mình bằng những gương người xấu.
Sân khấu cải lương
trong giai đoạn này dựng nhiều tuồng lấy từ cốt truyện Tàu, hình thành một dòng
cải lương tuồng Tàu.
Khán giả thích xem
cải lương tuồng Tàu không phải chỉ vì trong tuồng Tàu có mũ mảng y trang đẹp
mắt, đào kép hóa trang ăn mặc cổ trang lộng lẫy mà chính vì dân chúng biết
trước cốt truyện nhờ có đọc truyện Tàu, họ lại tìm thấy trong tuồng Tàu những
hình tượng nhân vật mà họ ưa thích nhờ ở những đức tính như trung hiếu, tiết
nghĩa, trí dũng, tín lễ, cương trực, anh hùng…những đức tín mà gia đình và xã
hội đương thời tôn trọng.
Hơn nữa cốt truyện
tuồng Tàu rất sôi động, có từng cặp nhân vật đối kháng nhau như Tần Cối với
Nhạc Phi, La Thành với Đơn Hùng Tín, Bàng Quyên với Tôn Tẩn, Tào Tháo với Lưu
Bị, Khổng Minh với Châu Du...
Tính cách của mỗi
nhân vật tuồng đều được khắc họa rất sắc nét, rõ ràng không ai giống ai nhưng
lại đọng trong lòng của khán giả đến độ những hình tượng nhân vật đó đi vào
thành ngữ trong cuộc sống của dân mình. Người ta nói : nóng như Trương Phi,
khóc như Lưu Bị, gian manh như Tào Tháo, mưu kế như Khổng Minh, trung dũng tiết
nghĩa như Quan Công, phản bạn như Bàng Quyên, bán nước như Tần Cối, gian thần
xiễm nịnh như Bàng Hồng - Tôn Tú.
Tiếng Việt lang thang
trên sân khấu tuồng Tàu thì phải mang phong cách Tàu, phải dùng văn vần và văn biền
ngẩu, văn lục bát và nói lối với lối ngâm thơ tứ tuyệt, lối thán theo thơ
đường, có nhiều điển tích Tàu, thậm chí câu ca, cách ca cũng mang âm hưởng Tàu.
Nhiều bài bản Tàu được dùng trong giai đoạn này làm giàu thêm cho cổ nhạc Việt
Nam vì cũng bài bản đó nhưng được các nghệ sĩ chuyển dần qua âm điệu Việt. Các
bài bản Tàu đến nay vẫn còn được sử dụng trong sân khấu như bài Xang xừ líu,
Khốc hoàng thiên, Lạc âm thiều, Tân xái phỉ, Ú liu ú xáng, Dì Phảnh, Phảnh Phá,
Xách xủi, Tây Thi Quảng...
Khi ca các bài bản
nầy trong các tuồng Tàu( Phụng Nghi đình,
Quan Công phục Huê Dung đạo, Lữ Bố thất Bạch Mã Thành ), tiếng ngân dài sau
câu ca phải dùng tiếng a. a. à á a a...các diễn viên khi ca những đoạn ngân hơi
dài nầy thường cũng phải quậy quậy cái đầu của mình như kiểu các học trò Tàu ca
lúc học bài trong phim Lương Sơn Bá -
Chúc Anh Đài.
Cũng nên biết là khi
ca cổ nhạc trong các tuồng xã hội Việt Nam, những tiếng ngân dài đưa hơi sau
câu ca, diễn viên dùng chữ «Ờ. Ơ. Ớ. Ơ. ». chớ không dùng chữ À Á A.. À…A….
Bài ca Hoàng Mai
trong tuồng Chức Nữ Ngưu Lang :
Tình chàng Ngưu cách
biệt đôi đàng
Nhớ thương ai suối lệ
đầm đìa
Chờ mùa thu mới mong gần nhau
Sầu biệt ly, sầu sông Ngân Hà.
Chức Nữ kia cũng mong mong chờ
Cho qua mau ngày tháng trông chờ
để nhìn nhau nói lên lời thơ
Giòng sông Ngân còn xa xa mờ.
Dẫu nắng mưa cũng không phai nhòa
Tình
Chức Nữ Ngưu Lang á a á a a à à.
Như trên đã kể, ngoài
dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu với văn phong gần với thi thơ đường và cổ
văn, một dòng sân khấu tuồng Tây được hình thành và người soạn giả tiền phong
trong hướng sáng tác mới này là soạn giả kiêm diễn viên Nguyễn Thành Châu tức
nghệ sĩ Năm Châu.
Nhờ có chữ quốc ngữ
dễ học, người mình ham đọc sách, đọc báo, đọc truyện nên tiếp xúc mau lẹ với
lịch sử, văn chương, chính trị và tư tưởng Tây Phương qua các sách dịch Les
aventures de Télémaque, Le Comte de Monte Cristo, Les trois mousquetaires,
Contes des mille et une nuits, Robinson Crusoé, nhà văn Hồ Biểu Chánh đã đọc
các tiểu thuyết Pháp rồi cảm tác, viết thành các cuốn tiểu thuyết:
- Chúa tàu Kim Quy ( cảm tác Le comte de
Monte Cristo của A . Dumas)
- Cay đắng mùi
đời ( Sanh famille của H . Malot)
- Chút phận linh đinh( En Famille của H .
Malot)
-
Thầy thông ngôn ( Les amours d'
Estève của A. Theuriet)
- Ngọn cỏ gió đùa ( Les misérables của V.
Hugo )
- Kẻ làm người chịu ( Les deux gosses của P.
Decourcelle)
- Ở theo thời ( Topage của M .
Pagnol)
Các soạn giả có Tây
học : Năm Châu, Tư Chơi, Tư Trang, Năm Nở, Đào Hồng Châu, Duy Lân, Giáo Út,
Mộng Vân… dựa vào các tiểu thuyết Pháp
đang được độc giả ưa thích, viết thành những tuồng cải lương như Giá trị
và danh dự( Le Cid) , Bằng hữu binh
nhung( Les trois Mousquetaires), Tơ
Vương đến thác( La dame aux camélias), Gió
ngược chiều( Ruy Blas), Hàm Lệ, thái
tử nước Đan Mạch( Hamlet), Giai nhân
và ác quỷ( La belle et la bête), Kích
Tôn Sơn Bá tước( Le comte de Monte Cristo), …
Tiếng Việt lang thang
trên sân khấu tuồng Tây bèn bỏ lối viết văn biền ngẩu, lối văn đối từng câu
từng vế, có vẻ kênh kiệu để hoà nhập vào dòng văn xuôi, lối văn mới thích hợp
với đời mới ngày nay. Thơ trong tuồng cũng giã từ lối làm thơ theo luật thơ
đường, thơ Tứ Tuyệt, mà thơ dùng trong tuồng được sáng tác theo lối thơ mới, tư
tưởng, tình cảm, ý thơ không còn bị gò bó vì niêm luật của thơ đường, thơ cổ phong
nên soạn phẩm càng gần gũi với cảm quan
của khán giả khiến cho sân khấu cải lương càng được đại đa số dân chúng trong
cả nước ưa thích.
Nhờ rời bỏ lối văn
biền ngẩu cùng các niệm luật theo loại thơ đường, các câu thơ gác vô vọng cổ
cho các tuồng có xuất xứ từ truyện Tàu cũng được viết như thơ mới dùng cho
tuồng xã hội Việt Nam.
Dưới đây là những câu
nói lối và thơ Tao đàn trong tuồng Hán đế biệt Chiêu Quân :
Hán Vương ( nói lối) :
Ái
khanh ôi ! Buổi đưa tiễn thêm ngỡ ngàng dạ trẫm,
Vạt cẩm bào ướt đẵm lệ quân vương
Nén tim đau khanh cất bước lên đường,
Ôm
đoạn thảm trẫm ngày đêm thương nhớ.
Chiêu Quân : ( thơ Tao đàn)
Hán, Hồ đôi ngả tình dang dở,
Duyên kiếp ngàn năm cách biệt rồi,
Mấy tiếng tỳ bà bao ngấn lệ,
Bên bờ biển
thẩm, gió chơi vơi.
Hán Vương ( vô vọng
cổ) 1.- Ái khanh ôi ! Nhạn môn quan chia tay đầy
nước mắt, trẫm xót đau như cắt đoạn can tràng... Nhìn mặt khanh trẫm càng thêm
tủi thẹn với chiếc ngai vàng… Mấy thu qua mỏi mòn trong cung lạnh, trẩm để cho
nàng vò võ kiếp hồng nhan, năm canh sầu mộng, sáu khắc tư lương, đốt đỉnh trầm
hương soi lại dung nhan gầy héo võ vàng, khi nghe tiếng trống sang canh liên
hồi khởi điểm.
Thơ văn vừa kể là thơ
văn viết cho một tuồng Tàu trong thập niên 60. Văn chương vẫn còn chịu ảnh
hưởng của cốt truyện vua chúa Tàu nhưng đã thoát ra khỏi lối văn biền ngẩu, văn
vần có vế đối ứng nhau
Trong tuồng xã hội,
dù văn vọng cổ viết có vần để ca sĩ dễ ca nhưng văn chương đã thoát khỏi
những điển tích cổ điển Tàu và không chú
trọng văn phải có vế đối ứng nhau. Xin giời thiệu vài câu vọng cổ trong tuồng Chuyện Tình Lan và Điệp:
Lan : Lá bàng ngoài kia cũng ngập ngừng rơi trong
gió, như nỗi buồn xưa chồng chất giữa tim…
( vọng cổ câu 5 ) …sầu…Mỗi một giọt mưa là một dòng lệ nghẹn
ngào…Mỗi chiếc lá vàng rơi như con thuyền nhỏ bơi ngược dòng về bến hẹn năm
xưa. Bến sông buồn chắc vắng bóng con đò đưa và khách sang sông không bao giờ
trở lại. Mái tranh xưa chắc u buồn quạnh quẽ vì người con gái tên Lan không về
nữa bao giờ.
Điệp : Và
hàng điệp ven sông im lìm soi đáy nước. Chiếc cầu tre gãy nhịp đứng chênh vênh.
Con đường đất đỏ quanh co những buổi chiều vàng. Vắng bóng người con gái quảy
hàng trên đường về khi tan chợ.
Lan : (
chập choạng giữa cơn mê, chưa nhận ra Điệp trong chiếc áo cà sa giả
ngưởi tu hành để được vào hậu liêu gặp nàng )
( ca câu 6 ) Thầy là bậc chân tu mà khi nghe trời chớm
sang thu còn gợi trong lòng nhiều kỷ niệm. Huống chi con là kẻ trót mang nhiều
khổ lụy, tuy khoác áo nâu sòng mà còn nặng nợ thế gian,. Câu kệ lời kinh không
khuây khỏa được chuyện lòng. Tiếng mõ hồi chuông thêm gợi buồn gợi nhớ(… ) Điệp
ơi, em đã cắt đứt giây chuông, sao tơ lòng không đứt với thời gian … Kìa, có
phải tiếng ma kêu quỷ khóc hay tiếng quỷ thần đang chờ rước hồn con!
Trên đây người viết
chỉ lược kê những vở tuồng viết cảm tác theo tiểu thuyết Tây, Tàu, Việt để giới
thiệu giai đoạn đầu tiên khi chuyễn tiếp từ nghệ thuật hát bội qua nghệ thuật
sân khấu cải lương, các soạn giả cải lương thế hệ tiền phong vừa sáng tác vừa
thể nghiệm, để rồi sau đó mỗi người chọn cho mình một phong cách, sáng tác
những tác phẩm sân khấu theo nhân sinh quan riêng của mình mà không còn dựa
theo các tiểu thuyết.
Các soạn giả cải
lương thuộc về thế hệ thứ ba có : Thiếu Linh, Nguyễn Phương, Hà Triều - Hoa
Phượng, Kiên Giang Hà Huy Hà, Quy Sắc, Lê Khanh, Mộc Linh, Hoàng Khâm, Thu An,
Tám Cao, Ngọc Văn, Vạn Lý, Viễn Châu, Yên Ba, Ngọc Huyền Lan, Thể Hà Vân, Thế
Châu, Nhị Kiều, Bạch Diệp, Minh Nguyên, Bảy Cao, Tuấn Khanh, Loan Thảo, Hoàng Việt, Yên Lang,… đa số soạn
giả thế hệ thứ ba có trình độ học thức từ Tiểu học đến bằng Thành Chung, ít
chịu ảnh hưởng của Nho học nên những các soạn giả nầy dùng văn xuôi và thơ mới
để viết những vở tuồng lịch sử, dã sử và xã hội cận đại Việt Nam.
Trong những thập niên
60, 70, các soạn giả kể trên đã sáng tác
những tuồng mà đến nay giới ái mộ sân khấu cải lương còn nhắc nhở :
Nửa
đời hương phấn, Con gái chị Hằng, Tấm lòng của biển, Tần nương thất của Hà
Triều Hoa Phượng ;
Đôi
Mắt Người Xưa, Bóng chim tăm cá, Ngả rẽ tâm tình, Chuyện tình 17, Bọt Biển,
Tiền rừng bạc biển , Chén trà Của Quỷ của Nguyễn Phương ;
Chiếc
quạt trầm hương, Sầu quan ải, Núi Liễu Sông Bằng, Áo Gấm Khôi Nguyên của Thiếu Linh ;
Vàng
sáu bạc mười, Người đẹp Bạch Hoa thôn của Hoàng Khâm,
Người
đẹp bán tơ, Người vợ không bao giờ cưới của Kiên Giang ;
Bên
cầu dệt lụa của Thế Châu vân…vân…
Vấn đề quan trọng đối
với một tác phẩm sân khấu không phải chỉ là vấn đề văn chương, dùng văn xuôi
hay thi thơ mà còn ở cách bố cục câu chuyện, cách xây dựng tính cách điển hình
nhân vật, cách phát triển và giải quyết các mâu thuẫn trong cốt chuyện., trong
tuyến các nhân vật, trong cách viết đối thoại. Quan trọng hơn nữa là do các
nghệ sĩ trình diễn có làm tác phẩm đó có thật sự sống trên sân khấu hay không.
Phê
bình một tác phẩm sân khấu, chỉ phân tích kịch bản văn học không thôi thì chưa
đủ mà còn phải được xem các nghệ sĩ
trình diễn, được nghe đàn và ca cổ nhạc vì con người nghệ sĩ mới chính là
phương tiện sáng tạo ra tác phẩm sân khấu.
Trong một bài báo
ngắn mà mời quí đọc giả theo con đường của Tiếng Việt lang thang trong một trăm
năm theo dòng sân khấu cải lương thì thật là không thế nào người viết có thể
trình bày đầy đủ được. Tôi vẫn kỳ vọng bằng một bài báo ngắn nầy, tôi góp được
chút tài liệu đến với các nhà học giả, các nhà biên khảo văn học để ghi nhận sự
hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu cải lương trong dòng văn học
sử Việt Nam.
tháng 2 năm
2017.
14 comments:
Hồi nhỏ tui phái nghe tuồng cải lương Bông hồng cài áo Thành Được đóng chung với Thanh Nga và tuồng Sơn nữ phà ca...
Ngày mai đám cưới người ta
Tại sao sơn nữ phà ca lại puồn...hu...hu...thiệt là...mà
Người mê cải lương
Tui tới giờ nầy cũng không hiểu Phà Ca tiếng Dziệt nghĩa là sao. Bác NP, Anh PCN, Các Cô LMH, KatieNămRG, HTX có biết không dzậy nói cho tui nghe.
Cô HTX lúc đó sợ còn hi ... chưa sạch mà puồn nỗi dzzì.
Bài bác NP post tui thích câu
“Ái khanh ôi ! Buổi đưa tiễn thêm ngỡ ngàng dạ trẫm, Vạt cẩm bào ướt đẵm lệ quân vương”.
Chắc có lẽ lúc nào tui phải tìm người hát đoạn đó. Cô LMH, Cô Năm RG, HTX thì hót không được khúc nầy rùi. Montreal có người hát được. Anh PCN mần được không nè, thiệt là ... m..ù..i lắm đó, dù Anh hát cho bất kỳ Ái khanh nào đó nghe.
Haha
Tụi tui phải móc hết hầu bao để mua vé coi cô sơn nữ PHÀ CA, bây giờ CT muốn biết PHÀ CA ra sao cũng phải móc hầu bao đài HTX,PKT, PKO... một chầu chắc chắn sẽ biết mặt mủi Phà Ca như thế nào?......
Hồi đó ở trường NTT có nhiều sơn nữ lắm nghen anh Tâm nào là sơn nữ cà phê,sơn nữ cà chua, sơn nữ cà pháo mèn ơi nói chiện với sơn nữ này phải tránh xa vì hay nổ...và sơn nữ cà chớn sơn nữ này hỏng chịu đi dưới đất mà thích đi trên mây và cực kỳ chảnh...khi nào anh đi dự HN tui sẽ chỉ anh coi mà hỏng biết tui có nhìn ga hong nữa...thiệt là. ..tình mà...HTX
Anh Nh ơi, hình nầy của NP có phải lúc bị bà bồ cắn môi không dzậy. Tui thấy tác giã còn oai hùng lắm nghe.
Tui chép câu cô HTX: ...thiệt là. ..tình mà...
Hôm nay tui Dở Hơi
Dạ KT xin cám ơn bài viết của bác soạn giả Nguyễn Phương gợi cho cháu nhớ 1 thời thơ ấu , khỏi cần văn khoe chắc cả nhà cũng đoán được cả nhà cô 5 RG mê cải lương cở nào rồi , tui có hai người cháu trai, con ông anh họ tên là Hà Triều- Hoa Phượng vì ba má nó mê coi cải lương quá xá , nên đặc tên con để kêu cho dở nhớ chắc hihihi .
Không biết thầy cô và bạn hữu gần xa còn nhớ không? Hể Tết đến có tiền lì xì hay ăn bài cào dùa , ăn lô tô là hí hững đi vô chợ nhà lồng ăn hột vịt lộn úp mề , về nhà không dám khoe sợ bị nói ngu hihihi , tối thì đi coi cải lương ở rạp Nghệ Đô , rạp Chung Văn rồi đi ăn mì hoành thánh Đào Ký , uống nước mía ở cái hẽm chổ rạp Nghệ Đô , ăn ổ bánh mì gà Mai Lan.
Tui thì thích nhứt tuồng "Hoa Mộc Lan tùng chinh " coi cười muốn chết luôn, coi hoài hong chán, tuồng "Ngã Rẽ Tâm Tình" cô Thanh Nga vai Quyên , tui mê cái câu hò của cổ ...
hò ớ ... đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ , đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu , hò ớ ... chứ anh dìa anh học chữ nhu, chứ chín trăng em đợi hò ... chín trăng em đợi, chứ mười thu em chờ ...
Lúc đó tui mơ được đi Sài Gòn Mỹ Tho coi cây đèn nó ra sao, mà làm gì có điều kiện để đi chứ.
HTX nói còn thiếu đa : còn Sơn Nữ Cà Rịch cà Tang , Sơn Nữ Cà Ràng nữa đó ... hihihi
Cô 5 RG
Cô 5RG xin lỗi viết sai phải sửa lại phải viết đúng là rạp " Châu Văn " thay vì Chung Văn, trong tấm hình này bác s/giả Nguyễn Phương đẹp lão quá trời quá đất luôn nha, chắc có nhiều người xem hình xong là " Say " đó.
Đã hơn chín bó rồi, mà Ông Nguyễn Phưong vẫn đào hoa phong nhả. Ở nhà dành cho mấy người già,ông Nguyễn Phương chưa biết mùi vị những bửa ăn của nhà già nấu. Ngày hai bửa, ông được hết bà nầy mời rồi đến bà khác.CT hỏi môi của ổng bị ai cắn, khó mà biết của ai.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngon lu.
Anh về anh quẹo chữ U,
Mỹ Tho bỏ đó ,anh về KiênGiang
LMH đọc nhưng đừng rủa tui nhen!!!!
Hò...ơ...Anh đành phải bỏ Mỹ Tho..ơ..bởi anh mê bún Kiên Giang..ơ...quá chừng. ..Giờ đây anh nấu. .quá rành...Ai qua Mộng Lệ An ..hò ơ...ghé nhà. ..tui ăn...kkk
Rễ Gạch Dá
Hò ..hơ..hớ..
Chớ đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Còn đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về nhà mà lại quẹo chữ U
Mỹ Tho anh bỏ lại..ờ...
Hò ..hơ..hớ .. Mỹ Tho anh bỏ lại mà dù về Kiên Giang..
Hò..hơ..hớ..
Chớ biển Kiên Giang hoàng hôn về đẹp lắm
Xứ Hà Tiên còn có bún mắm cá trèn
Anh dù về Kiên Giang lúc trời đã tối đen
Chớ nhà đèn thì hư máy..ờ
Hò..hơ..hớ... Chớ nhà đèn thì hư máy mà anh lại khen cái nổi gì???
Hò ớ ... chứ chợ Bến Thành tui hỏng có rành gì mấy
còn chợ Rạch Giá đầy rẩy đồ ăn ,
hò ớ hò ... tui ghé chợ cá biển mua con cá bóp thật tươi , hò ớ ,
cá bóp nhúng dấm ăn xong vẫn còn thèm ,
bước qua chợ cá đồng mua con cá lóc bự ,
đem dìa nướng trui thoa thêm mở hành chấm nước mắm me hò ớ ...
Ăn cá lóc nướng trui xong anh bỏ Sài Gòn Mỹ Tho
Dù cho đèn Rạch Giá có mờ mờ
Thì anh cũng xuống xin ở trọ nhờ nhà em
Cô 5 RG
Envoyé de mon iPad
Ha ha Kim Trúc ui, thầy BLG ơi, tui thấy bác Nguyễn Phương đang vào Blog kìa kìa
Bác Nguyễn Phương xem ông này viết có dđúng không?
"Cũng ở đường Phan Đình Phùng, ngay trong vòng chợ Vườn Chuối là nhà của Soạn Giả Nguyễn Phuong, khi ấy anh Nguyễn Phương có đứa con gái nhỏ cỡ trên 10 tuổi và nó cùng với Ba Má… đặt lời thoại cho vở cải lương!!! Cô gái nhỏ cùng ba má ngồi 3 góc trong phòng, đóng làm 3 nhân vật… nói chuyện, rồi đánh máy luôn, đó là ”làm thoại”để Nguyễn Phương “lấy câu trẻ con” soạn tuồng cải lương… Đó là cách Nguyễn Phương đang soạn tuồng và… bị bắt tại trận… hì hì…
Nguyễn Phương là Đạo Diển cho đoàn Thanh Minh Thanh Nga và mỗi tuồng cải lương được đánh máy sáu bảy bản để cho anh em “nhắc tuồng” đứng sau màn nhung hay cánh gà…đọc câu cho Đào Kép đứng ở ngoài sân khấu… nói hay ca!!! (cứ tưởng Đào Kép học thuộc lòng hết vở tuồng, hỏng có đâu nhen!!!) Nguyễn Phương là trưởng ban kịch Tân Dân Nam , chuyên kịch trên đài truyền hình Sàigòn chiều thứ bảy hàng tuần, gồm có hề TV, TT, NĐT.vv… và bà vợ của Nguyễn Phương là chị của phu nhân tướng CVV… Bởi vậy, do đó, Nguyển Phương… mới “tó” được cái giấy phép ngon lành… là mượn tàu Hải Quân để đóng phim xi-la-ma!!! Đó là phim “Hải Vụ 709” định quay ở Rạch Giá… Nhưng vì tình hình chiến sự ác liệt ở đó, nên phim Hải Vụ 709 bị đình chỉ… kéo dài và sau cùng phải bãi bỏ, nếu không, thì anh chàng Thủ Đức sẻ làm…tài tử xi-nê mà lại đóng vai Trung Úy Hải-Quân… nhảy xuồng đổ bộ rồi! Uổng thiệt nhen…
Cũng thời gian đó, ban Tân Dân Nam đang “dợt tuồng” kịch truyền hình, đó là vở “Ai Là Thủ Phạm” tại nhà anh Nguyễn Phương… Lúc đó chàng (vì là lính) được Nguyễn Phương giao đóng vai Cảnh Sát Trưởng… Úi chà chà… Nguyễn Phương biểu chàng ta phải “tập” trước… cách còng tay thủ phạm ăn trộm kim cương, em NĐT đóng vai thủ phạm… Còng tay… mà phải “tập” ý là… để chàng… còng… mà hỏng đau tay NĐT!!! Tới khi lên sân quay 2 tại đài Truyền Hình Sàigòn… ngài Cảnh Sát Trưởng, bước vô, làm mặt ngầu, liền móc còng (hân hạnh) còng tay NĐT… ngay tức khắc nhen!!! Bàn tay NĐT đẹp như chính NĐT, chàng lính cầm 2 tay người đẹp, tra vô còng số 8… mà chàng ta thấy…quá đau lòng!!! Hì hì…
Trên truyền hình, anh chàng lính, chỉ… lộ diện trên màn ảnh nhỏ của Đài Truyền Hình Saigon chỉ được có… 30 giây cuối cùng của vở kịch… thôi hà! Soạn Giả Nguyễn Phương chuyên môn hút Thuốc Gò khi soạn tuồng và điếu nào cũng bự tổ nái, đốt cháy liên tục, khói bay mờ mịt như đống un buổi chiều tà! Và trên bàn viết thường có… rờ vẹt… ba bốn khúc Thuốc Gò loại “nặng” đô, đó là… phòng khi, nửa đêm soạn tuồng… mà hết thuốc hút!
Chàng Hiu 374
Tịnh Đế Liên Hoa xin thay mặt Bác Nguyễn Phương (Bác nhờ trả lời). Câu chuyện kể trên là đúng sự thật. Cô con gái nhỏ lúc đó hiện có gia đình và ở Canada.Ông đã bỏ thuốc cách đây nửa thế kỷ rồi.
Nếu có thể xin vui lòng cho biết danh tánh người biết rõ về ông để được tay bắt mặt mừng. Xin cám ơn.
Post a Comment