_________________________
-Thơ của kẻ sĩ ở cuối cuộc phong
trần-
Đã có thời tôi làm nghề dạy học. Nói dạy học là nghề sao nghe ra có vẻ cay đắng thế nào, kiểu như mấy ông lái đò... đưa khách qua sông rồi khách bỏ đi luôn, quên cả ngoái lại. Đúng ra chuyện làm thầy của tôi cũng không đến nỗi bẽ bàng như vậy. Dẫu có chút đỉnh hục hặc lúc mới khởi đầu nhưng rồi đâu vào đó. Có thể nói là khá suông sẻ nữa. Và dẫu không quá mươi năm vẫn để lại trong tôi nhiều dư vị ngọt ngào hơn là đắng chát. Cái đám em út đó dẫu vì nạn nước phải lưu lạc tứ phương vẫn giữ nguyên cái nghĩa thầy trò rất mực là... thầy trò. Đôi khi vẫn gợi lại trong tôi những hình ảnh hết sức dễ chịu khi đời tôi đã quá sức khó chịu vì sức nặng trì trì của ngày tháng, vì những oán hờn trầm tích từ cuộc đổi đời cũ vẫn không tan, vì những hy vọng cho một cuộc đổi đời mới ở quê nhà càng lúc càng trở nên vô vọng ... Vâng, tại vậy đó, đôi khi một tách cà-phê, một bữa rượu mời mọc ân cần của một người học trò cũ gặp lại tình cờ giữa một độ đường lữ thứ, đôi khi chỉ một lời thăm hỏi sức khỏe văng vẳng từ một đường giây viễn liên nào đó, bỗng làm vui lại một khuya hôm trằn trọc... Vâng người già hay sống với kỷ niệm, vui hay buồn, đắng cay hay ngọt ngào... Những ngày đã qua ! Những chuyện đã qua!
Cái không gian hẹp té giữa bốn bức tường trường
lớp vậy mà không thiếu chuyện để nhớ. Coi vậy mà cái thế giới bít
bùng đó không hẵn phẳng lờ và suông sẻ như mấy trang sách
quốc-văn-giáo-khoa-thư. Dẫu vậy, vẫn vui nhiều hơn buồn, vẫn ân tình
ân nghĩa hơn cái trường đời mênh mông ở bên ngoài cửa lớp. Bởi vậy
mà lắm lúc lại nhớ vơ nhớ vẩn, hay nhớ có tuồng có tích, thì vẫn
là nhớ... nhớ thuở làm thầy dạy... văn chương cho đám học trò đã hết
nhỏ mà còn chưa lớn.
Mùa cuối thu rồi mà không biết vương vấn ra sao
lại cứ dùng dằng không chịu cuốn theo gió mà đi, cứ lẩn tha lẩn
thẩn rắc lá ngày này qua ngày khác. Lá rơi phủ vai bức tượng trắng
sau nhà, lấp đầy chiếc hồ cá nhỏ, rồi che khuất cả lối ra vào. Cái
người rổi việc nhất là tôi, lại có việc làm ... tiễn mùa thu đi
bằng cách quơ tay hốt từng bựng lá vàng, gom thành đống vào những
góc khuất, đợi cơn tuyết đầu mùa ủ kín, lấp cho quên vết mùa thu
cũ. Chuyện chẳng có gì mà rồi sinh chuyện. Có hôm ra sân, trời không
nắng không mưa, chỉ hiu hiu gió. Thứ gió mùa thu, nhẹ như hơi thở
người tình đã có lần đi vội qua đời mình mà không có dịp ngó lại,
thổi gờn gợn lên cánh tay trần chút hơi lạnh đâu đâu. Bãi cỏ chỉ mới
úa, mấy luống hoa cũng chỉ mới vừa rũ cánh dẫu chưa phai màu. Khổ
nỗi, phải chi rụng thì cứ rụng, lằng nhằng chi đến lê thê lếch thếch
mà xui chi cho lại nhớ thương. Mà nhớ gì thương chi cũng chẳng biết.
Chỉ biết sao như có tơ giăng ngang mắt, chằng giữa tim làm mỗi bóng
mây qua sao có gì vướng víu, mỗi cuối ngày đi sao có gì nấn nuối ...
Khổ nổi chẳng biết tơ nhện ấy gút mắt từ đâu nữa.
Vậy rồi trong cái không khí váng vất nửa hư nửa
thật, nửa ấm nửa lạnh, nửa xưa nửa nay, có bữa nghỉ tay, chợt ngẩng
lên nhìn trời, thấy trời xanh biêng biếc, chẳng một gợn mây, lòng
chợt phân vân rồi dưng không nhớ đến một người, một người đã xa, xa
lắm, xa như cái dòng lịch sử mịt mù đã cuốn trôi đi tất cả.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
À, Nguyễn Khuyến, danh sĩ giữa khi thế nước tới
hồi mạt vận cuối thế kỷ 19, cuộc đời đã được phanh phui không sót
một cái chắc lưỡi trong mấy bộ văn học sữ được đem giảng dạy trong
các trường trung học ở Miền Nam thưở nọ. Tôi cũng vậy, do theo nghiệp
vận tôi cũng đã nhiều phen lên lớp dở giọng ngùi ngùi kể lể phê
phán khen chê ... Mà điều, thú thật, ở cái tuổi mới vừa chín tới,
tôi nói mà lắm lúc ngần ngại. Rằng thì là ái quốc tiêu cực, rằng
thì là phúng thích mơ hồ, ... gịọng thơ thiếu khí phách ngang tàng
của kẻ sĩ giữa cơn đọa lạc v.v... và v.v... Ờ mà có thể đòi hỏi
nhiều hơn nữa không?
Những kẻ sĩ ở cuối cuộc phong trần ! Thử nghĩ
lại, miền Nam, sau ngày 30 tháng 4 !!!
........... Nguyễn Khuyến, sống cái tuổi trẻ của
mình trong sự chộn rộn của lịch sử. Đến tuổi 50- ngủ thập nhi tri
thiên mạng, người Pháp coi như thực sự chiếm trọn Việt Nam, dù dưới
bất cứ danh hiệu mỹ miều nào. Triều Nguyễn chỉ còn là cái bóng
của chính mình. Nhợt nhạt, lao đao, quờ quạng ... giữa sóng gió dữ
dằn của thời cuộc. Thân phận của những người đã vinh danh nhờ vào
cái trật tự phong kiến đó, rồi cũng sẽ và phải lao đao, nhợt nhạt
... theo cái khung mình đã dang tay chống đỡ và cũng đã che chở lại
cho mình. Dĩ nhiên không phải không có người dang thân ra gánh vác,
nhưng rồi cũng chỉ như đem trứng chọi đá. Còn ngoài ra, chỉ có cái
lối phản kháng tiêu cực là thịnh hành. Không xoay chuyển được thời
thế thì ... rũ áo từ quan, về nhà đuổi-gà-cho-vợ. Nói mà không có
ý mỉa mai. Chỉ là để ... ngậm ngùi.
Nhưng nếu không làm vậy, thì sẽ làm gì ?
Tay chân thì ... trói gà không chặt.
Đầu óc thì ngoài cái mớ chữ nghĩa chép đầy
trong mấy bộ tứ thư ngũ kinh chi hồ giả dả cũ đâu từ cái thời ...
không còn chỗ nào để cũ nữa.
Đám “ bạch quỷ ” thì ngoài súng mút-cơ-tông,
lại còn có thêm tàu bọc sắt chạy bằng hơi nước phun khói mịt mù ...
Ngóng vô triều thì triều cũng đang ngóng cổ
ngóng mấy ông con trời phía bắc cũng đang ôm đầu chạy có cờ ...
Vậy thì, còn ngõ nào để chờ đợi, để trông cậy
hay để vung tay phất cờ ...
Vâng, tình hình cuối thế kỷ 19 của xứ Đại Nam
ta là như vậy. Có gì khang khác hay giông giống tình trạng của miền
nam Việt Nam những ngày cuối tháng ba, đầu tháng tư năm một chín bảy
lăm ... Tôi, và những người trang lứa trên dưới ba mươi, chúng ta đã
sống thế nào, nghĩ thế nào, làm gì ... ? Lo lắng ! Nghĩ ngợi ! Lăng
xăng ! Lính quýnh ! Ngó tới ngó lui rồi ngó lại mình ? Ngó lại mình
? Rồi sao ? Rồi sao nữa ? Rồi không ra sao hết ! Hay là rồi nhảo nhẹt
như cục bột thấm nước ...
Bốn mươi mấy năm sau cơn thất tán, đọc lại mấy
bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, rồi sao buồn quá đỗi, nhìn ngược lại
đời ông, nhìn ngược lại đời mình ... Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe .
Thử nghĩ đến mùa thu ở một vùng đất phía bắc
Việt Nam. Mà thật ra ở đâu đó cũng vậy. Vì ở đâu đó mà nếu còn
trên mặt đất này cũng đều không vui. Tại vốn dĩ mùa thu đã được gán
cho cái tánh buồn. Nắng buồn ít. Mưa buồn nhiều. Mà không nắng không
mưa cũng buồn, không nhiều thì ít. Vậy rồi, trong một ngôi làng nhỏ,
một buồi sáng, một buổi trưa hay một buổi chiều, một người đàn ông
đã luống tuổi, dù chưa cỗi như gốc đa đầu làng nhưng cũng đủ già để
xóm giềng vị nể, nhất là kể ra cũng đã hàng danh phận, sống thu
mình, lặng lẽ như chiếc bóng của chính mình. Tuổi trẻ, dù có chút
lận đận, ông cũng đổ đầu ba kỳ thi cả nước, làm quan dẫu không tột đỉnh
cũng bậc phụ mẩu chi dân, lại giữa chốn yên hoa cũng là tay phong lưu
rất mực. Khoan nghĩ về đời sống xả hội mà nhớ về cõi riêng tư, góc
cạnh thể hiện rõ nhất cho cá tính. Nội mấy câu lục bát nôm na đã
thấy rõ bản tính người tài tử. Rượu ngon không có bạn hiền. Không
mua không phải không tiền không mua. Rồi đến lúc người bạn-hiền đó
xuôi tay nhắm mắt, lại kêu lên Bác Dương thôi đã thôi rồi. Nước mây man
mác ngậm ngùi lòng ta. Rõ là kẻ chí tình rất mực. Lại nữa, bài
hát nói nghe đùa hoa giỡn nguyệt mà lộ rõ như mực đen trên giấy
trắng cái bản chất nòi tình của bậc văn-chương-nết-đất. Hồng Hồng
Tuyết Tuyết. Mới ngày nào chửa biết cái chi chi. Mười lăm năm thắm
thoát có ra gì. Chợt ngoảnh lại đã tới kỳ tơ liễu. Ấy là chưa
nhắc đến mấy câu mưỡu đầu đọc lại mà muốn ... giựt mình (**). Hãy
nghĩ tới trong thời mà nền đạo đức cổ truyền như là cái gông siết
cổ, một bậc văn nhân ( trí thức ) có tiếng như ông mà xổ thơ trai gái
lả lướt như tay phóng đãng bất cần đời, thì so ra có thua gì
Đỗ-Mục-mười-năm-tỉnh-mộng Dương-châu !
Vậy mà ông vẫn làm tròn cái vị trí xã hội
của mình. Sách vở còn ca tụng.
12 tuổi đã thuộc kinh sử, 14 tuổi văn lý đã
thông, 15 tuổi đổ đầu kỳ hạch tỉnh... Chánh sự mẩn cảm, thanh liêm,
lại tỏ ra có tài thao lược trong nhiều vụ tiểu phỉ. Một lần dâng sớ
xin về hưu nhưng vua Tự Đức không ưng, triệu về kinh làm Sử quán Toản
tu ... Rồi được cử giữ Tổng Đốc Sơn Hưng Tuyên... Năm 1884, sau khi vua
Tự Đức băng, triều đình ký hòa ước Patenôtre, công nhận cho Pháp bảo
hộ Bắc và Trung kỳ. Năm sau, Nguyễn Khuyến lấy cớ đau mắt xin về hưu
(***)
Dọc theo sự nghiệp quan trường đó, sự nghiệp văn
chương cũng chẳng thua kém chi ai. Mọi thể loại, mọi đề tài đều có
lượt vung tay phóng bút.
Nói vậy, để thương cảm thêm cho một kiếp tài-tình-thiên-cổ-lụy.
Dĩ nhiên, đời xa người khuất, không ai đem phân tâm học mà giải bày.
Tuy nhiên, dù không trăm phần, cũng không đến nỗi lạc nẻo. Con người
đó, với bổn phận trách nhiệm đeo đai, bằng cách này cách khác, vẫn
sống cái phần hồn chân thực nhất của họ, bên cạnh vai trò mà xả
hội đã áp đặt. Nghĩ vậy rồi, làm sao mà không cảm mộ. Họ sống đời
riêng của họ song song với đời chung của thiên hạ. Họ sầu cái sầu
riêng họ mà họ còn sầu cái sầu chung của thế nhân. Họ đau những mất
mát tư riêng mà còn đau thêm nỗi hờn vong quốc. Thử nghĩ đến tình
cảnh một người mang nỗi buồn lũy thừa theo cấp số nhân ...
Một ngày mùa thu, người đàn ông đó, thả bộ
loanh quanh mấy cái ngõ trúc vắng hoe, hoặc lơ đãng thả dây câu xuống
mặt hồ lặng ngắt hay nhắp chút rượu chiều khi ngày sắp hết ... hay
làm bất cứ một chuyện gì đó, mà có cần chuyện gì là chuyện gì,
khi tới lúc đời đã vuột ngoài tầm tay, khi mọi vui buồn oán hận đã
là cố sự, nhất là khi quê hương có đó mà như không có đó ... người
đàn ông đó, ông ta làm mà như chỉ để làm, làm mà như không để chờ
kết quả.
Vậy rồi ... có khi ông phóng bút làm thơ.
Văn sử không cho biết chính xác Nguyễn Khuyến
viết ba bài thơ Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh lúc nào trong số thơ văn
ông để lại. Điều chắc nhất là thơ làm vào một mùa thu nào đó trong
suốt những mùa thu đã đi qua đời ông.
Rồi ... cũng lại một ngày mùa thu, thứ mùa thu
bất biến của trăm năm trước hay trăm năm sau, từ một cõi xa tít ở bên
này biển Thái Bình không ngớt sóng dữ, trời có có cao xanh hay trời
nặng trĩu sương mù ... thì cũng vẫn cùng một tâm cảnh. Trong cái rưng
rưng của đất trời, dưng không rồi nhớ lại mấy bài thơ cũ. Dưng không
rồi lại thấy băn khoăn. Băn khoăn, thứ xúc cảm nhẹ như có như không,
một thứ chuyển động mơ hồ y như chiếc lá rụng xuống mặt nước làm
gợn chút sóng lăn tăn rồi ... lặn mất. Dẫu vậy, vẫn băn khoăn ...
Có thật, từ nhiều năm trước, khi còn đứng trên
bục giảng để giải thích, phê bình, khen ngợi, chê bai ... những bài
thơ xưa đó cho đám em nhỏ, lòng trắng trinh như mấy tờ giấy học trò,
có lúc đã nói như vậy, đã khen như vậy, đã chê như vậy ... ! Mà
thiệt ra, ở cái lứa tuổi đôi mươi đó, đã hiểu gì, đã cảm ra sao ...
mà nói không ngại ngùng, mà giảng với dạy thứ văn chương của những
người trăm năm trước. Thứ văn học giáo khoa, đóng khung trong mớ giáo
điều sư phạm có nói ra được hết- mà có quyền nói ra hết, những thứ
tâm động sâu đến khôn dò của lòng người. Tuổi thanh niên loạn lạc những
năm 70 của thế kỷ 20 hiểu được gì cõi lòng rất đỗi nhiểu nhương của
những bậc vãn niên những năm 30, 40 của thế kỷ 19 ? !!!!
Thơ vốn dĩ là của riêng người làm kể cả thơ
làm để tặng. Người đó, lúc đó, chữ có nghĩa lúc đó, ngay lúc đó.
Người đọc thơ, đã trễ đi một tích tắc ... có còn là chữ và nghĩa
của lúc thơ ... bất chợt hiện ra. Người làm thơ là làm thơ cho họ
với xúc cảm của riêng họ. Người đọc thơ là đọc thơ cho mình với hỉ
nộ ái ố lạc dục của riêng mình. Hôm nay không còn là ngày hôm trước,
ngày hôm sau nữa, năm mười năm ... trăm năm sau đã lạc dấu biệt mù ...
Trời đất bên ngoài, vũ trụ trong ta có bao giờ thường trụ. Lấy gì
làm mốc để biểu là hiểu đúng, để xỉ xỏ này nọ nọ kia .Thích thì
rủ rỉ tâm tình. Không thích thì nín. Vậy thôi.
Cho nên ... ngày tháng này, ở đoạn cuối một
cuộc phong trần, lòng không khỏi ngậm ngùi khi bất chợt nhớ ông, nhớ
nếp sống sau khi treo ấn từ quan, lui về quê cũ, lưu vong ngay trên
chính quê hương mình, với những giằng co giữa chống đối và thỏa
hiệp, giữa ý thức trách nhiệm của kẻ sĩ và sự bất lực của văn
nhân, giữa nết tài hoa của bậc phong lưu và nếp đạm bạc của kẻ ẩn
cư ... từ đó ... ngày tháng qua, tuổi tác rụng dần theo những mùa thu
thay lá.
Đọc lại thơ, lần này là đọc lại cho mình, sau
bao nhiêu vật vã với tang thương. Đọc lại ... để hồn truồi theo cảm
xúc của người xưa, để vui với, buồn vì, hận theo với người đã trăm
năm khuất bóng ... rồi thấy xót xa mà thương ơi một tấm lòng vốn mẩn
cảm với đời, với người ... kể cả rưng rưng với từng nhịp mùa rơi
mỗi độ thu đến rồi thu đi...
Thử lần lượt đọc lại thêm một lần ba bài thơ
thu cũ ...
Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc
thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa
vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo, Tựa gối,
buông cần lâu chẳng được. Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu
đóm lập lòe. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng
hay, hay chả mấy, Độ năm ba chén đã say nhè.
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc
lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc ánh
trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước
nào ? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
Đọc thôi, đọc bằng cái giọng bình thường nhất,
nhỏ nhẹ nhất ... để thấy cái trong veo của một tấm lòng trong suốt.
Đã hết những vọng động của tuổi trẻ, những mắc míu của đời sống
mà rồi sao như vẫn còn vướng vít những dư âm của lịch sử buồn. Dẫu
vậy, thơ nhẹ như mây. Mây thì trôi nổi, bềnh bồng. Vô sở trụ.
Thường, thơ làm theo lối Đường thi phải đúng
phép tắc. Vị trí của từng câu, từng chữ, nghĩa lý đối đãi khít
khao như đổ khuôn. Luật lệ rạch ròi như đinh đóng cột. Lại thêm điển
tích với lại điển cố cứ khệnh khạng như bộ dáng hát bội ... làm
bài thơ rồi nặng nề từ hình thức tới nội dung. Thơ thu của ông, dẫu
cũng bảy chữ tám câu như bao giờ, lại thoát ra được cái câu nệ
thường tình của thi pháp cổ điển. Thứ bố cục khít rim với phân
nhiệm chặt chẽ, nào mở nào thực nào luận rồi kết, nhất nhất không
được sai chạy. Rồi chữ đối chữ, nghĩa đối nghĩa ... như những rào
cản giữ ghịt hồn thi nhân lại bên nây bờ mộng tưởng, con đường sáo
mòn cứ o ép riết lấy mà đi ... Kể cả chữ – phương tiện để làm thơ,
cũng phải được chọn lọc, gò gẫm, trau tria ... sao cho không thường,
sao cho cao sang, sao cho phảng phất thứ hơi hướm của một thuở Đường
thi Tống từ đã đi vào huyền sử !
Vậy mà thơ thu của Nguyễn Khuyến, dù không phá
lề mà sao như vượt thoát khỏi luật. Cái hay ở đó mà cái khéo cũng
từ đó. Ồ mà không, không phải khéo. Khéo là cố công, là tỉ mỉ.
Đằng này, thơ tự nhiên như nước suối róc rách từ nguồn chảy ra, chảy
ra léo lách qua bờ bụi, len lỏi qua vách đá, tự nhiên, uyển chuyển
... Chảy thong dong, nhẹ nhàng ... không cần gió đẩy gió đưa cũng
chẳng cần phải chèo chống mỏi mê. Chảy như nước thì ... chảy. Thơ ...
như thơ.
Vần eo là loại vần ... rất ... trặc trẹo – mà
ông gieo nhẹ như hơi gió thổi liêu xiêu ( veo, teo, vèo, teo, đèo ... ).
Những câu thơ toàn bằng chữ Việt thuần nôm. Thứ chữ mà đã có thời
người ta ghét bỏ vì cho rằng ... nôm na là cha mách qué ! Người có
học – hay coi như có học- suốt thời lịch triều gần như tránh né. Vậy
mà một người từng ba lần đổ đầu cả xứ với thứ chữ được coi là
thông thái, lại phóng tay làm thơ ... bằng thứ chữ bị coi là quê mùa.
Nội chút đó thôi đủ để cảm phục thêm tấm lòng quan hoài của bậc
danh sĩ vốn nặng lòng với quê hương làng xóm. Mà làm thiệt hay. Vừa
tự thoát ra cái mặc cảm tự tôn của người hay chữ, vừa biểu lộ một
phong cách ung dung tự tại của kẻ sĩ cuối đời, phủi tay xóa sạch
mọi phiền toái của cái xả hội đang hồi lộn lạo.
Đọc suốt bài Thu điếu kể chuyện đi câu cá, mà
có thấy đâu chuyện cá ăn câu. Với giọng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát và
mang mang chút thiền vị, chỉ nhận ra được cái phong thái ung dung, tự
tại của một kẻ biết ta biết người, thả thuyền câu chỉ là cái cớ,
để trám cái trống không của một ngày coi như đã dư thừa. Thời gian
của chuyện đi câu là thời gian bất động. Ngồi câu là dang tay níu
đứng lại thời gian, là ngồi tịnh giữa dòng dời đang cuộn chảy, là cách
thế thoát ra những vọng động của lịch sử. Là ta tìm lại chính ta
sau tầng tầng dâu bể.
Sực nhớ đến Liễu Tông Nguyên, đời Đường, cũng
đã có lần gieo mình giữa mênh mông thiên địa. Thiên sơn điểu phi tuyệt.
Vạn kính nhân tung diệt. Cô chu thôi lạp ông. Độc điếu hàn giang tuyết.
Một thuyền, một bóng, một dòng sông. Không một vết chim đến tuyệt
cùng. Chẳng một vết chân ngoài vạn lý. Ngồi câu, người với tuyết
mênh mông !
Có phải không, ngồi câu là ngồi lại với chính
ta, là ta tìm lại ta giữa hỗn mang của trời đất, giữa hỗn loạn của
lịch sữ, giữa hỗn độn của lòng người.
Mà có tìm được hay không lại là chuyện khác.
Chuyện cần là lách mình ra khỏi những vọng động của đời thực để
thế sự rồi mơ hồ như vọng âm của tiếng cá quẩy động ở đâu đâu.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp
động dưới chân bèo !
Rồi lại khi đối ẩm với ... mùa thu !
Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu
đóm lập lòe
Vẫn cái giọng thơ nhẹ nhàng, giản dị tới độ
bình dị, chữ nghĩa rặt nôm làm nghe ra thân thuộc dù đời xa đã xa
hằng bao thế hệ. Bởi vậy, đọc thơ rồi sao thấy cùng một nỗi cảm hoài.
Ba cái thứ chữ dân gian, thứ ngôn ngữ nói, nghe
ra thì dễ dãi hết sức mà đưa vào thơ làm rõ thêm ra cái cảnh trí
nhà quê thân thuộc - năm gian nhà nhỏ thấp le te, ngõ tối đêm sâu, đốm
lập lòe - hình quen cảnh thuộc làm như đâu mới hôm qua hôm kia còn
chạy nhảy lúp xúp trên những bờ đê nức nẻ, còn núp cột đình coi
cọp tuồng San hậu, còn lăng xăng qua lại mấy nhịp cầu tre lắt lẻo ...
thứ thân thuộc giờ chỉ còn trong tưởng vọng dưng không làm dậy lên
từng nỗi xót xa. Xóm vắng, năm ba gian nhà lá thấp chủm, lượn lờ
vạt khói cơm chiều và con trăng sớm nhỏ nhẹ dọi xuống lòng ao
hẹp ... Quê mình đó chăng ? Bao lâu rồi chưa thấy lại ! Ông Nguyễn ơi,
có phải hình ảnh một xóm làng đìu hiu từ cơn nạn nước làm ông chảy
nước mắt dù ông còn nán lại quê ông. Và tôi, kẻ xa quê cũng vì nạn
nước, giữa hồi chạng vạng làm sao còn thấy kịp lại quê nhà !
Thơ đọc lên nghe thì dễ dãi mà lại sắc mắc như
giấu đâu gai góc làm xước máu mấy con tim cứ hay hoài vọng cố hương
... Có phải tại chính cái trơn lùi của chữ nghĩa vốn quen miệng tới
ngọt xớt của tiếng nói câu chào làm người ta thấy gần gũi, thân
thiết rồi ... cảm. Thơ đó chăng ? Hóa ra tìm chi chữ cao kỳ, nghĩa bí
hiểm ... cho mệt.
Lại nữa, khi không giữa lúc lòng đang rười rượi
mớ hình xưa bóng cũ, lại bày rượu ra mà độc ẩm. Uống rượu với thu
thì có khác chi là ... uống rượu một mình.
Rượu. Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu.
Thoại bất đầu cơ bán cú đa. Âu Dương Tu.
Rượu. Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu. Dữ nhĩ đồng
tiêu vạn cổ sầu. Lý Bạch.
Rượu rót ra là để cùng san sớt. Rượu một mình
là miếng đắng trộn miếng cay. Đắng cay không vì men rượu. Đắng cay vì
thiếu người đối ẩm.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Đến một lúc rồi ngó quanh ngó quất, dẫu cũng
người qua kẻ lại mà lấy ai để san sẻ chút vị nồng. Lọc lừa sau bao
nhiêu dâu bể thăng trầm, lắm khi rồi chỉ còn lại ta-với-ta. Cái nhóm
chữ này coi vậy mà sau rốt rồi không thiếu người san sẻ. Ly rượu
chiều chưa cạn. Lòng đã lạnh đầu hôm. Ngửa cổ nốc ngụm chót. Rượu
đắng, lệ khôn cầm.
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Đọc mà nghe
thương quá. Rượu một mình. Y như mình đối bóng. Thứ bóng ngồi đó mà
nín khe. Phải chi ông Dương còn bên để san chút rượu sớt chút lòng
hẵn là rượu có nồng cũng chỉ làm tiếng cười thêm hào sảng. Đằng
này, rượu một mình, nói chi tới năm ba chén, rượu mới bốc mùi thôi,
đã bao nhiêu rộn ràng quá vãng đủ làm chao đảo một hiện tại cô đơn.
Độ năm ba chén đã say nhè. Lời thật hay chỉ là lời tự biếm. Lời tự
biếm hay cũng chính là lời tự thú nhận về sự bất lực của mình
trước những đổi thay của thời thế cũng như của chính thân phận mình.
Buồn ơi, chào mi !
Mùa thu của Nguyễn Khuyến đẹp như bức tranh thủy
mặc. Phong vị tiêu sái dễ làm người thoát tục. Lúc nào trời cũng
xanh ngắt, cao vời vợi. Chấm phá đôi ba nét thiệt nhẹ, mơ hồ làm
trời nước bỗng lung linh. Trời thu xanh ngắt mấy từng cao. Cần trúc lơ
phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ. Song thưa để lọt
bóng trăng vào. Cái đẹp mong manh như dễ vở, dễ xui lòng người chiêm
nghiệm đến cõi vô thường. Từ đó bỏ quên thực tại như một cố gắng
vượt thoát. Nhưng khổ nỗi, muốn là một chuyện mà lòng người trăm
nỗi là giây tơ chằng chịt, giữ khịt người ta lại với hiện tại, thứ
hiện tại thất quốc vong thân. Mãi mãi vẫn là tâm trạng của kẻ thua
cuộc.
Trời xanh cao vút, lất phất vài nhánh trúc đẩy
đưa như ngoắc gọi con trăng chèn qua mấy chấn song thưa vào làm bạn.
Tâm cảnh đã không vui thì cái đẹp càng gợi ra cái buồn. Mấy
chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Thấy hoa năm nay sao lại nhớ hoa năm ngoái ? Luyến tiếc gì chăng ? Mà
sao lại hoa-năm-ngoái ? Tiếng chim kêu chiều lạc lõng có phải là biểu
hiện cho tình cảnh bơ vơ của người dân mất nước. Chim lạc bầy có
biết tổ đâu mà về ! Ngỗng-nước-nào ? Có phải rồi bỗng nhớ Đỗ Phủ
! Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ. Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Ông ở
quê mà hồn ông ở đâu ? Có phải như ông Đỗ ! Hai lần cúc nở, bao nhiêu
lệ. Một chiếc thuyền neo, mấy khóa sầu. Có phải nước mất, người ta
dẫu sống trên quê mà hồn đã viễn xứ. Lại nữa, giữa nạn chung, còn
bao nhiêu nạn riêng. Những thúc ép bó buộc của một cuộc đổi đời tàn
tệ. Sử chép lại như sau :
... Người Pháp sau khi dẹp yên giặc
giã tìm cách thu phục nhân tâm, mua chuộc các sĩ phu có danh vọng
trước, nên có ủy cho Hoàng Cao Khải rồi Vũ văn Báo nhiều lần mời ông
ra làm quan. Nhưng ông nhứt định khước từ. Tuy nhiên để Pháp khỏi ngờ,
để cho những ngày già được yên ổn, ông vẫn phải nhận sự thăm hỏi
của phe hợp tác, và cho con là phó bảng Nguyễn Hoan ra nhận một chức
quan nhỏ với Tân Trào... (**)
Khổ thân người vốn đã bỏ đi lánh đời. Nhưng đời
có chịu bỏ người đâu. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao
mới được phần thanh cao. Dẫu vậy, bằng mọi cách, dù không tích cực,
ông vẫn mặc nhiên xác nhận tư cách kẻ sĩ, khi đời loạn lạc. Cứ
tưởng đến hoàn cảnh của cá trong chậu chim trong lồng mà thương. Cứ
nghĩ đến Nguyễn Du hơn nửa thế kỷ trước trong cảnh thay ngôi đổi
chúa. Một phen thay đổi sơn hà. Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu.
Nghĩ thêm chút nữa đến người miền Nam sau cơn vỡ trận bẽ bàng cuối
tháng ba năm đó. Người dốt nát đã khổ. Người có chữ càng khổ thêm
mấy lần vì cái đầu vốn hay nghĩ ngợi. Mà càng nghĩ ngợi thì càng
thêm bế tắc. Lúng ta lúng túng ...
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Đọc lên hai câu chót mà cảm thán đến chạnh
lòng. Làm sao nói hết được thứ mặc cảm của kẻ sĩ lỡ thời. Biết
trách nhiệm đó, biết bổn phận đó. Nhưng biết rồi làm sao. Nhập cuộc
thì không đủ sức. Đứng nép ra bên lề khi thế sự cứ cuồn cuộn thì y
như trốn chạy. Làm sao ? Làm sao ! Nghĩ thẹn với Đào Uyên Minh, người
viết bài Qui khứ lai từ như một tuyên ngôn phủ nhận hết mọi liên hệ
với cuộc đời chẳng qua cũng chỉ là một cách né tránh, khi không thể
trực diện với vấn nạn của một kẻ sĩ khi nước mất nhà tan. Chỉ là
vì khó ăn khó nói với đời. Mà nhất là vì khó ăn khó nói với
chính mình, khi chính mình đã biết câu trả lời phải là ... một sự
dấn thân tích cực, ở bên này hay bên kia chiến tuyến. Phong cách Lão
Trang có phải chỉ là những biện hộ lấp liếm đến tội nghiệp. Biết
vậy, nhưng rồi giữa những thúc bách của lịch sử và hạn chế của
thân thế, ông đã chọn cho mình lối xuất xử ít tệ hại nhất. Bên cạnh
miếng mồi nhử đỉnh chung, bất hợp tác cũng đã là thái độ liêm sĩ
tối thiểu của một văn nhân. Đã không ít kẻ còn làm ngược lại !
Nhưng rồi, thử đặt lại câu hỏi, người về ở ẩn
khi nước mất vào tay ngoại bang, kể cả lọt vào tay kẻ đồng chủng mà
không đồng tình, rồi có yên lòng sống nốt quảng đời còn lại.
Hay rồi vẫn là những ray rứt, những băn khoăn, những đêm sâu thắc thẻo
...
Những bài thơ thu của Nguyễn Khuyến rốt lại chỉ
là những thầm thì với chính mình, như một cách xoa dịu thứ mặc cảm
bỏ cuộc, trốn chạy ... của một kẻ vốn đã có danh phận với đời. Hơn
nữa, như một cách gá bạn để chia bớt lẻ loi !
Hồi đó, lúc còn trên bục giảng, mình có nghĩ
ra được vậy không ?
Lời tự vấn hẵn là lời tự trách !!!
Uống rượu, câu cá, vịnh thơ, họa thơ ... hay gì
đi nữa cũng chỉ là để lấp đầy cái khoảng trống khủng khiếp bày ra
hằng giờ hằng phút trước mặt người tự thấy mình đã thành ... vô
ích. Kẻ bị xô ra –hay tự ý - đứng bên lề khi dòng đời cứ lạnh lùng
xoay trở đến vô thủy vô chung có phải là kẻ đã bị lưu đày - hay tự
lưu đày - vào cái xó riêng. Ở đó, rất đỗi một mình, lặng lẽ đón
từng ngày đến, đưa từng mùa đi, những mùa thu của đời mình.
Đến một lúc, mặc những mùa thu đến rồi đi, có
còn ai ... đưa tiễn !
Cao vị khanh
(*) tựa bài nhạc của Trịnh Công Sơn
(**) Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì
Bây giờ Tuyết đã đến thì
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già
(***)Việt Nam văn học sử giảng ước tân biên- Phạm
Thế Ngũ
Ngoài lề-
Lẻ ra chắc cũng đã đủ cho mớ cảm hoài bất
chợt. Nhưng rồi sao thấy như thiêu thiếu khi chưa xuýt xoa thêm chút xíu
về tài hoa thơ phú của ông. Thật ra sách vở mấy đời đã nói gần như
không sót chút nào. Chỉ có điều vốn là người miền Nam rặt nòi lục
tỉnh, khoái cái lối nói nôm na mà ởm ờ kiểu như
hôm-qua-qua-nói-qua-qua-mà-qua-hổng-qua ... vậy mà mới nhớm lại mấy
câu thơ cũ trên môi, cả mùa-thu-Nguyễn-Khuyến như đã hiu hắt trong đầu,
tiếng-thu-Nguyễn-Khuyến đã xao xác trong tai. Thử vẽ vời hai câu thực
của bài Thu điếu, Sóng biếc theo làn hơi gợn tí đã muốn kêu lên ... “
giời ơi sao mà tuyệt thế ! ” Mà quả tình tuyệt thiệt ... Làn hơi gợn
tí. Gợn tí thôi, tí thôi. Miền Nam nói “ chút hà ”. Người Bắc nói “
tí thôi ”. Đặt vô đây đúng boong cái chỗ của chữ. Sóng có gợn mà như
không gợn. Chỉ gợn tí thôi. Chút sóng li ti làm mặt ao tưởng là
phẳng lì mà vốn là động đậy. Y như cái ảo giác ngược lại khi nhìn
nắng giữa trưa hè thấy nắng lung linh mà thật ra nắng có nhúc nhích
gì đâu. Ông cho ta cái cảm tưởng như ông làm thơ
No comments:
Post a Comment