ValentinesDay:
ChuyệnVề Chị Kim Chi
ChuyệnVề Chị Kim Chi
February 14, 2017I
Hôm nay, 14 tháng Hai, Velentine 2017, mời đọc
một chuyện tình thời chiến của tác giả từng nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ
2013. Bác sĩ Vĩnh Chánh, tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, là Y
Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới
giờ phút cuối tại vành đai Sàigon ngày 30 tháng Tư. Bác sĩ Vĩnh Chánh hiện là
cư dân Mission Viejo, hội viên hội Ái hữu Y Khoa Huế hải ngoại.
Bác sĩ Vĩnh Chánh
Với các bạn cùng khóa 16 Trưng Tập Quân Y tình
nguyện vào Nhảy Dù. Hình “We Were Once Soldiers” QYND1974, từ trái qua phải:
Các Y Sĩ Trung Uý Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Cao Đẳng, Vĩnh Chánh,
Nguyễn Thành Liêm, Y Sĩ Thiếu Tá Trần Quý Nhiếp, TĐ Phó TĐ Quân Y Nhảy Dù, Lê
Quang Tiến, Nguyễn Tấn Cương, Dược Sĩ Khánh.
* * *
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi (1)
Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ
Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc
vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở
quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù
anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật
bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.
Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời
gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang
xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người
yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.
Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng
của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm cùng sự
lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa tuổi
ô mai.
Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ nhất
Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá thư yêu
thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.
Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về
phép. Đêm trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn
Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng một giọng
nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến đi này
không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh nghĩ
may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”
Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai mình
có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối lưỡi.
Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi anh bị
thương… Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về đi
anh”.
Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh không cầm
tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn
vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh, chị thấy
thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng bình
tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh đi, em có chuyện muốn nói.”
Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh trong nhà
trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không còn cơ hội
nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau đêm nay. Em
không muốn chờ đợi thêm nữa.”
Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình
vào vbòng tay anh, mặt đầm đìa nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống
cuống đến tội nghiệp. Bên cho với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn
đo. Sau đó, cả hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến,
chị ngã đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự
nhiên tuôn trào.
Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con
người mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị
không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở
thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y
như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”
*
“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông
Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn
vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.
Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ.
Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.
Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin
cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.
Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng
chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND, đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi
phân tán mỏng. Trên đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử
thương? Bị bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ
danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ hậu cứ
TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.
Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ
quan HQ, chạy nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng,
lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà lòng quặn
đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị, vĩnh viễn
xa rời và mất luôn cả anh.
Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas,
chị mới biết mình có thai được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn,
cá nhân chị vừa lo lắng vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao
nhiêu gian nan, cam go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có
con, chị can đảm vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort
Polk, tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho
mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số là
trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn từ
bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau
không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can
đảm sinh tồn.
*
Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị
trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army
Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn
5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt
Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết
thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ
bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện
quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng
tham chiến 2 lần tại Việt Nam.
Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị
trở thành bệnh nhân của tôi tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám
phá chị bị ung thư vú và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói
chuyện dài hơn, chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN,
về người cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết
tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương, nhưng không
mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người Việt tỵ nạn
trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về sinh sống với
cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang Arkansas.
*
Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim
Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa
vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi
biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi
ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng
nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là
tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui
với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra
được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991.
Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài
Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra
sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người
trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội
ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân
quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận
học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết
sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.
Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi,
nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị ngắt khoảng
bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.
*
“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người
chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)
Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và
viếng mộ đại gia đình ở Thủ Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô
đơn giữa lòng phố đầy người.
Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của
anh do một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ bến
xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng khá xa thị
xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm trí, không
một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một câu hò ạ ơ.
Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến
hoa cả mắt, nóng cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao
nhung nhớ chất chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.
Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi tiết,
xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu theo thời
gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước. Không chần
chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy gò ngồi
trên một sạp tre, lưng xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng.
Chị ngập ngừng lên tiếng, kêu nhẹ tên anh. Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị,
cùng lúc quờ quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân
phải cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy
đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt.
Chị đột nhiên khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho
chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp
nâng chị dậy.
Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút quân,
cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch tìm
thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể lành nếu
được chữa trị với trụ sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là
tháo khớp gối. Sau đó anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại
tận bên Cao Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ.
Vì vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất thểu về
lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết, hiện tại là
vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người lính Địa
Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước. Trong vài năm sau đó, đôi mắt
anh làm độc kinh niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.
Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những giai
đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù binh, chị không
thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một giọng
nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài, của một cam chịu không lối thoát.
Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại,
như chôn sâu vĩnh viễn nỗi oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi
buồn khôn nguôi kết trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế
nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày
vò tự trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!
“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)
Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không,
tê tái cõi lòng, nhớ lại năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị
thương thì chúng mình mới có thể trở thành vợ chồng.” Thế nhưng tuyệt đối chưa
một lần chị nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề
nghĩ anh đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam
nhân oai hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng
nề trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của
tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm
sâu trong một khoảng màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của
anh tránh không cho chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của
anh, thầm cám ơn rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa
đường qua sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người
vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng
Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác
trong cuộc đổi đời.
Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ anh mời
chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng úa duy nhất
của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu đời của chị.
Càng về khuya, chuyện trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng
anh biết là chị có thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại
đơn vị cuối tháng 2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt
tên cho con là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay
con gái được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay
chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm và đầy
thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu mình.
Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi là
con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái
anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác
khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến
về VN của chị, chị cũng hoàn toàn dấu con gái.
Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh
và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.
Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn,
chị có một giấc ngủ thật an lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt,
phần kia vì chị đã đạt được mục tiêu chính của chuyến đi. Sau bao nhiêu cầu
xin, bao nhiêu thấp thỏm đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm
qua nay được đáp ứng và trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh
về anh và sự mất anh trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di
tản mang thai, những oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách
trong đời sống mới, những gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một
mình; những cô đơn tinh thần khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt
văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ
thuốc mới, những sợi tóc xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn
bệnh trở nặng; những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ…
tất cả đã tạo cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô
cùng mãn nguyện tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống
sót qua chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn
đường luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và
đứa con trai
Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ hơn con
của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về kịp chào
chị trước khi chị lên đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn
còn lại cho vợ anh đêm qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con
tạm biệt vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai
người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý.
Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai.
Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn
lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu xanh tuyệt đẹp. Không
mây.
*
“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng
tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)
Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị
chết trong bình an vào giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết,
theo lời yêu cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang
theo chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ để
lại cho cha.
Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ
chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.
Tháng Giêng, 2017
Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh
Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh
(1): “Đã Một Lần”, nhạc của Y Sĩ Nhảy Dù Phạm Gia
Cổn. Lời thơ của Th. Tá TQLC Định Nguyên
https://youtu.be/312lnbyEYV8
https://youtu.be/312lnbyEYV8
1 comment:
Truyện thật hay mà cũng thật buồn cô ơi .
Cô 5 RG
Post a Comment