__________________
Tác-Giả: Hà-Việt-Hùng
Hồ-Dzếnh Nhớ Nhà Châm Điếu Thuốc
Vào những thập-niên 1960 (hay trước
hơn), thỉnh-thoảng tôi lại nghe bản nhạc phổ từ thơ Hồ-Dzếnh, “Chiều”, thơ năm
chữ của ông. Bài thơ này được sáng-tác năm 1940. Hơn 10 năm sau (1951) (có chỗ
nói là ba mươi năm sau), được NS tài-ba Dương-Thiệu-Tước phổ-nhạc thành
ca-khúc, vẫn mang tên Chiều. (Lúc đầu, in trong báo Người Mới, Chiều có
tênlà Màu Cây Trong Khói) và lập-tức trở-thành nổi tiếng. Bài
hát trở thành bất-hủ mãi cho tới bây giờ. Bài hát được viết với nhịp 2 phần 4,
ghi giai-điệu là Tempo di Habanera, cung Ré trưởng (D Majeur DM).
Trên
đường về nhớ đầy
Chiều
chậm đưa chân ngày
Tiếng
buồn vang trong mây
Chim
rừng quên cất cánh
Gió
say tình ngây ngây
Có
phải sầu vạn-cổ
Chất
trong hồn chiều nay?
Tôi
là người lữ-khách
Mầu
chiều khó làm khuây
Ngỡ
lòng mình là rừng
Ngỡ
hồn mình là mây
Nhớ
nhà châm điếu thuốc
Khói
huyền bay lên cây…
Bản
nhạc với những khúc hát dìu-dặt, nhẹ-nhàng, bay bổng như con người ở một nơi
nào khác, không phải “nhớ nhà châm điếu thuốc, khói huyền bay lên
cây…” Nghe xong, muốn chạy vào nhà, châm một điếu thuốc, phì-phèo hút
thử, xem “khói huyền” có “bay lên cây”không. NS
Dương-Thiệu-Tước đã sử-dụng thành-công những nốt trong chùm liên-ba (le
triolet) móc đơn trong các trường-canh (mesure) của bản nhạc. Nghe bản nhạc ngập-ngừng,
đau-nhói, tự-nhiên thấy tim mình rung-động lạ-lùng. Ông giữ y-nguyên lời của
bài thơ, chỉ lập lại câu sau của mỗi đoạn, càng làm cho bản nhạc thêm bồn-chồn,
day-dứt và rã-rời như tiếng hạc bay về trong sương chiều.
Theo
NT Du-Tử-Lê, Chiều như một thứ “Trở Về Mái Nhà Xưa” của H. Curtisse.
Tôi
rất thích bản nhạc này. Lại càng thích-thú khi biết ông không phải là người Việt
thuần-túy. (Thân-phụ ông là người gốc Minh-Hương, Quảng-Đông, Trung-Hoa di-cư
sang VN từ lâu đời). Hồ-Dzếnh sinh năm 1916 tại Làng Đông-Bích,
Huyện Quảng-Xương, Tỉnh Thanh-Hóa, mất ngày 13 tháng 8 năm 1991, tên thật
là Hà-Triệu-Anh hay Hà-Anh (đọctheo giọng Quảng-Đông là Hồi-Tsiu-Dzíng,
gọi tắt là Hồi-Díng). Sau ông đổi là Hồ-Dzếnh.Ông tốt-nghiệp trung
học, dạy học tư, viết báo, làm thơ từ năm 1931 tại Hà Nội.
Năm 1953 ông có vào Sàigòn làm báo. Năm 1954 ông lại trở
về Hà Nội tiếp-tục làm báo. Ôngcó chân trong Hội Nhà-Văn Việt-Nam
ngay từ buổi đầu thành-lập (1957).
Vì
tên của ông “ngộ-nghĩnh”, một số ít bạn-bè vui-tính thường gọi đùa là Hồ-Dính."Hồ
Dính, dính hồ, hồ chẳng dính", nhưng ông chỉ cười và không
bao giờ giận ai.
Có 3
người phụ-nữ đã đi vào cuộc-đời Hồ-Dzếnh, có thể làm người đọc lẫn-lộn: Nguyễn
Thị Hồng-Phúc (người yêu của Hồ-Dzếnh), Nguyễn-Thị Huyền-Nhân (vợ cả của ông
trước khi bà mất), và Nguyễn-Thị Hồng-Nhật (vợ lấy sau).
Năm
1947, Hồ-Dzếnh kết-hôn với bà Nguyễn-Thị Huyền-Nhân tại Thanh-Hóa. Ông bà có một
con trai nhưng chết-yểu. Bà Huyền-Nhân mất năm 20 tuổi (1950). Năm 1954, ông lập
gia-đình lại với bà Nguyễn-Thị Hồng-Nhật tại Hà-Nội. (Bà Nhật có một con
riêng.) Người con duy-nhất của hai ông bà là Hà-Chính (sinh vào đầu năm 1950)
và ông Hà Chính cũng chỉ có một con duy-nhất Hà-Quang (SN 1984), học xong đại-học,
đã đi làm và hiện định-cư ở Đức. Cháu đích-tôn của Nhà Thơ vẫn tiếp-tục cuộc đời
tha-hương, nhưng có phần “thoải-mái” hơn ông nội.
Hồ-Dzếnh qua nét vẽ của HS Hoàng-Lập-Ngôn
|
Trước
hết, ông thực-sự là một Nhà Thơ có tài. Ông được nhiều người biết đến qua tập
thơ Quê Ngoại (1942) với một giọng thơ nhẹ-nhàng,
siêu-thoát, phảng-phất hương-vị thơ cổ Trung-Hoa. Ông còn đăng nhiều thơ, truyện
ngắn trên các báo và còn mấy vở kịch đã trình diễn, nhưng chưa xuất bản.Từ 1937
ông có các tác-phẩm in trên các báo Tiểu-Thuyết Thứ Bảy và Trung
Bắc Chủ-Nhật. Những sáng-tác trước 1945 đã đi vào lòng người đọc. Ngoài ra,
Hồ-Dzếnh còn là một nhà văn với nhiều tác-phẩm đã in, tiêu-biểu là tập Truyện
Ngắn Chân Trời Cũ (1942), Thạch-Lam đề tựa.
(Wikipedia) và tập Hồi-Ký Truyện Không Tên. Sau nhiều năm bị
quên-lãng và trù-dập, ôngmất ngày 13-8 năm 1991. Đúng 16 năm sau, ông được
truy-tặng Giải-Thưởng về Văn-Học Nghê-Thuật Nghệ-Thuật. Liệu Giải-thưởng
đó có muộn-màng cho một người có nhiều công-lao với văn-học nghệ-thuật như ông,
đã nằm xuống 16 năm qua?
Lúc
sinh-thời, ông là người cần-cù, siêng-năng, chuyện gì cũng làm được. Thật vậy,
ông không từ-nan một việc gì. Trong thời-gian làm ở Nhà Máy Gia-Lâm, lúc nào
ông cũng vui-vẻ với mọi người. Ông không thù-hằn, không tranh-giành với ai, được
mọi người kính-nể.
Ông
là người có nhiều cơ-duyên với Nhà-Văn Thạch-Lam. Tại căn nhà ọp-ẹp bên đê
Yên-Phụ, Thạch-Lam là người đã góp ý cho tập truyện Chân Trời Cũ của
Hồ-Dzếnh(Chân Trời Cũ gồm 14 truyện ngắn, cách viết gần
như hồi-ký, gồm: Ngày Gặp-Gỡ, Người Chị Dâu Tôi, Con Ngựa Trắng Của Ba Tôi,
Lòng Mẹ, Chú Nhì, Mơ Về Nước Chúa, Hai Anh Em, Vừa Một Kiếp Người, Em Dìn, Thằng
Cháu Đích Tôn, Ngày Lên Đường, Chị Yên, Sáng Trăng Suông, Thiên Truyện Cuối
Cùng.Bài tựa cho tập truyện này có nét bút sau-cùng của Thạch-Lam – người nghệ-sĩ
say- mê ngôn-ngữ (chữ của Hồ-Dzếnh) với cõi-đời. Khi đến nhà Thạch-Lam
lần thứ 6, mang theo tập truyện Chân Trời Cũ vừa in, thì “tôi
chỉ còn thấy quang-cảnh đắng-ngắt, một chiếc giường nhỏ trống-trơn, chị Thạch-Lam
lặng-lẽ bước ra, đầu vấn khan-tang, nghẹn-ngào cho tôi hay, anh đã mất được hơn
một tháng.”(Vi-Thùy-Linh –thethaovanhoa.vn).
Sự gắn-bó
của hai người bạn vong niên Thạch-Lam—Hồ-Dzếnh, có lẽ vì cả hai cùng có tuổi-thơ
bất-hạnh như sau, đã làm rung-động người đọc từ bao nhiêu năm nay.
Trong
"Lời Giới-Thiệu" Tuyển-Tập Hồ-Dzếnh – Tác-Phẩm Chọn-Lọc, NXB Văn-Học
1988, nhận-định: "Tác-phẩm của Hồ-Dzếnh không nhiều, lại không tập-trung
ở một tờ báo hay đặc-san nào. Với bản-chất trầm-lắng, ông luôn-luôn khiêm-tốn, tự
cho mình là người mới bắt-đầu bước vào nghề viết. Tuy-nhiên, với hai tập văn
thơ Chân Trời Cũ và Quê Ngoại, Hồ-Dzếnh được biết đến như một
nhà thơ có chân-tài."
Trong
“Chân-Dung Văn-Học”, NXB Hội Nhà-Văn 2001, NT Hoài-Anh viết về Hồ-Dzếnh: "Phần
đóng-góp quan-trọng nhất cho văn-học Việt-Nam của anh lại là tập Chân Trời Cũ,
thể-hiện nếp sinh-hoạt, tính-cách, tình-cảm, tâm-lý của bà con gốc Hoa trong cộng-đồng người Việt.
Hồ-Dzếnh chỉ kể những chuyện đơn-giản về người cha, các
anh, chị, em mình, con ngựa của cha mình... làm cho người đọc Việt-Nam rung-động
tận đáy lòng."
NT
Bùi-Giáng cho rằng Hồ-Dzếnh là người làm thơ lục bát rất hay, nhưng thơ thất
ngôn chỉ ở mức trung-bình. Trong cuốn Thi-Ca Và Tư-Tưởng, Bùi-Giáng cho rằng:
"có thể không cần đọc Nguyễn-Du, nhưng không thể không đọc Rằm
Tháng Giêng của Hồ-Dzếnh" (Wikipidea). Nào, ta hãy đọc bài thơ
này của Hồ-Dzếnh.
Ngày
xưa còn nhỏ... ngày xưa
Tôi đeo khánh bạc lên chùa dâng nhang,
Lòng vui quần áo xênh xang,
Tay cầm hương, nến, đinh vàng mới mua.
Chị tôi vào lễ trong chùa,
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên:
-"Lòng thành lễ vật đầu niên,
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng!"
Chị tôi phụng phịu má hồng,
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi.
Tam quan, ngoài mái chị ngồi,
Chị nghe đoán thẻ, chị cười luôn luôn.
Quẻ thần, thánh mách mà khôn:
-Số nàng chồng đắt, mà con cũng nhiều!
Chị tôi nay đã xế chiều,
Chắc còn nhớ mãi những điều chị mơ.
Hằng năm, tôi đi lễ chùa,
Chuông vàng, khánh bạc ngày xưa vẫn còn.
Chỉ hơi thấy vắng trong hồn,
Ít nhiều hương phấn khi còn ngây thơ.
Chân đi, đếm tiếng chuông chùa,
Tôi ngờ năm, tháng thời xưa trở về.
Ngập-Ngừng là
bài thơ nổi-tiếng thứ hai của Hồ-Dzếnh, trong tập thơ "Quê
Ngoại"(1943), được các NS phổ thành ca-khúc, giữ nguyên từng câu chữ
hay đã thay-đổi, thêm-bớt những chỗ cần-thiết, kể cả tựa, như "Anh
Cứ Hẹn" của Anh-Bằng, hay “Em Cứ Hẹn”của
Hoàng-Thanh-Tâm (năm 1987) "Chuyện Hẹn-Hò" của Trần-Thiện-Thanh (1971) càngchắp
thêm cánh cho tác-phẩm của NT Hồ-Dzếnh bay sâu hơn vào
lòng người thưởng-ngoạn nghệ-thuật, hay thế-giới thi-ca của Hồ-Dzếnh nói
riêng.
Em cứ
hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ: Gớm, làm sao nhớ thế?
Em cứ
hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Em tôi ơi, tình có nghĩa gì đâu?
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa.
Hoa bướm ngập ngừng cỏ cây lần lữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi!
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách -cố nhiên! -nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho
nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
Bài
viết sẽ lạc-đề nếu người viết cứ nói về lời trong những bản nhạc của các NS. Mục-đích
của bài này là nói về thơ văn Hồ-Dzếnh. Bản nhạc Anh Cứ Hẹn của NS Anh-Bằng được
viết với nhịp 4 phần tư, âm-điệu Cha Cha Cha, cung Fa Trưởng, được nhiều Ca-Sĩ
hát.
Anh Cứ Hẹn (Anh Bằng):
Anh
cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
Để một
mình em dạo phố lang thang
Quán
vắng nơi đây nụ hôn quá nồng-nàn
Em
bước vội để che hồn trống vắng…
Anh
cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
Để
thuyền tình em đợi bến si-mê
Những
lúc xa nhau là tim sống gần kề
Không
dỗi-hờn, xót-xa làm ướt mi
Tình-yêu
chỉ đẹp phút hẹn thề
Tình-yêu
sẽ buồn khi bước vào vòng đam-mê
Tình-yêu
như trái mọng chín rung rinh trên đầu cành.
Tình-yêu
nắng lụa hóa mong-manh.
Anh
cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
Tình
chỉ đẹp khi còn dang-dở thôi.
Những
cánh thư yêu đừng nên kết vội-vàng
Như
cánh buồm đừng nên dừng bến đỗ.
Anh
cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé
Cuộc
đời buồn khi tình đã lên ngôi
Có
biết bao nhiêu tình say-đắm tuyệt vời
Đâu
dang-dở như tình mình, thế thôi.
Em Cứ Hẹn (Hoàng-Thanh-Tâm):
Bản
nhạc Em Cứ Hẹn của Hoàng-Thanh-Tâm được viết với nhịp 2 phần 2 (hay C Chẻ), điệu
Rumba, cung Ré Trưởng. Bản nhạc này không có nhiều thay-đổi so với bài thơ
nguyên-gốc.
Anh
cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé!
Để lòng buồn em dạo khắp quanh sân
Lòng mênh-mang em đếm bước âm-thầm
Em khẽ nói: "Gớm sao mà nhớ thế!"
Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé!
Anh yêu ơi! Tình-nghĩa có gì đâu.
Nếu là không lưu-luyến buổi ban-đầu
Thuở ân-ái mong-manh hơn nắng lụa.
Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé!
Để ngày mai tình-ái mờ hơi sương
Em sẽ trách, cố-nhiên, nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi anh hãy gắng quay về.
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu-thề
Thư viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau lơ-lửng với nghìn xưa...
Chuyện Hẹn-Hò (Trần Thiện-Thanh):
Đây
là bản nhạc ít “chịu ảnh hưởng” của bài thơ nhất, ngoại-trừ câu cuối cùng. Điều
dễ hiểu là Trần-Thiện-Thanh đã phần lớn sáng-tác bản nhạc này, chứ không phổ nhạc.
Bản nhạc được viết ở nhịp 4 phần tư, điệu Ballad (hay Slow Rock), cung Ré thứ
(D mineur Dm).
Thôi
em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé…
Trong
những bản nhạc, tôi thích nhất câu “Cho nghìn sau lơ-lửng đến
nghìn xưa…” Trước đây, trong nhiều năm, tôi vẫn lầm-tưởng bài thơ này
là của Xuân-Diệu. Thật vậy, thơ ông lãng-đãng như sương khói, nó là cái gì đó
nhẹ-nhàng, trôi-nổi trong dòng tư-tưởng miên-man, bất-tận.
Thực
ra,thơ Hồ-Dzếnh trong 2 tập Quê Ngoại và Hoa Xuân Đất
Việt (1946) không gây cảm-xúc mạnh-mẽ bằng văn xuôi.
Truyện
Hồ-Dzếnh làm người đọc cảm-động đến rơi nước mắt. Ông đã viết thực bằng mực,
hòa với máu và nước mắt. Ông không phải tưởng-tượng vì đó là bi-kịch đời ông, cả
nửa đời lo miếng ăn, long-đong, vất-vả.
Ông
viết về nỗi đau-đớn, mất mát của riêng mình, nhưng không một lần than-thân
trách-phận hay oán-hờn số-kiếp. Chính vì thế, người đọc đã cảm-thông với những
nỗi-đau của ông.
Năm
1947, ông về lại Thanh-Hóa, lấy bà Nguyễn Thị Huyền-Nhân. Năm 1950, khi con
trai mới bốn tháng tuổi, bà Huyền Nhân (khi đó 20 tuổi), bị bệnh tả, qua đời.
Vợ
chết, con khát sữa khóc, Hồ-Dzếnh buồn-tủi đi mua quan-tài, chỉ kịp chôn vợ
xuống lớp đất sơ-sài, không bia-mộ. Ông ẵm con đi bú nhờ khắp khu Tư, cảnh mà
Vũ-Bằng đã thấy và ghi lại. Ông chạy về Hà Nội, nhưng không còn ai thân-thích,
lại cõng con vào Sài-Gòn, ở đó có người anh ruột Hồ-Triệu-Bích, mở tiệm xe đạp ở
đường Hiền-Vương (nay là Võ-Thị-Sáu). Lúc này, ông đã sống đến tận-cùng nỗi-đau
của kiếp người.
Ông
là 1 trong 165 người thành-lập Hội Nhà Văn VN ở Hà-Nội vào tháng 4/1957. Cũng
chính nơi đây, có một thời gian dài, bàn tay chỉ biết viết lách của ông từng phải
làm thợ đúc-thép, thợ máy ở nhà máy xe lửa Gia-Lâm, lãnh lương công-nhật hơn 10
năm, khi nghỉ, không có bảo-hiểm, lương hưu. Ông bị nghi-kỵ oan, và bị mọi người
“bỏ quên” suốt thời-gian dài, ông vẫn nén chịu như đã quen thế, để yêu thương,
để khiêm-nhường và hy-vọng. Nhiều tác-phẩm của ông in trong tuyển tập không ghi
rõ năm sáng-tác, làm khó xác-định từng chặng viết. Song, hình như điều ấy không
quan-trọng nữa, tác-phẩm của ông đạt độ “phi thời-gian” rồi (Vy-Thùy-Linh,
sđd).
Đọc
“Cuốn Sách Không Tên”, ông viết lại sự tủi-nhục khi đứa con mất mẹ;
người chồng kiệt-sức, kiệt tiền, gặp mụ bán quan-tài tham-lam, đanh-ác, chờ dịp
“chặt chém” không thương-tiếc. Ông đành dùng mẹo lừa lấy được cái quan tài
về chôn vợ ban đêm. Vợ đã chết từ chiều, nằm giúi vào bụi cây vì nhà thương thiếu
phòng để xác:
“Mẹ
tôi nằm ở đó, lãnh đạm trước cuộc oanh-tạc, giống một cây củi khô. Chiếc quần
đen mỏng rách, áo cánh vận từ hôm bị ốm. Để người chết đỡ tủi, cha tôi cởi chiếc
áo cánh ướt trên người, đắp lên người vợ. Cha tôi nghẹn-ngào không khóc được.
Quan-tài ngắn, người chết buộc phải nhét chặt, chân hơi vồng lên, tóc lòi ra
ngoài. Rồi vài ngày sẽ bị bật nắp ván”. Ngôi
mộ vùi sơ-sài, không có bia đã bị thất-lạc, Hồ-Dzếnh không tìm được. Năm 2002,
con ông đã cố tìm, song tất cả bị san bẳng, chung số-phận với ngôi mộ đứa con đầu
lòng của Hồ-Dzếnh mất hơn một tuổi (Hà-Xuân-Nhuệ) chôn ở cánh-đồng trong làng.
Truyện
ngắn của Hồ-Dzếnh luôn tạo ra cảm-giác là truyện thật mà ông tham-gia, chứng-kiến
trong đời. Nó được viết kỹ, dồn-nén cảm-xúc đến độ tuyệt-vời.
Anh
đỏ Phụ (1941)
là người hiền-lành, dân-đen, con của ông Biếm, thầy giáo làng. Anh đỏ Phụ đã hỏi
chị Yên, đợi mãn-tang cha nuôi sẽ cưới. Hơn hai năm sau, chị bị chính “cậu tôi”
hại. Chị Yên bị tủi-nhục phải bỏ làng ra đi. Anhđỏ Phụ không biết chuyện này,
anh tình-nguyện vào làm phu cao-su ở Tân-Thế-Giới. Anh chia tay “tôi” ở ga xe lửa,
vì đau-khổ mất vợ, rồi bỏ xác ở xứ người. “Đêm đó, tôi mong cho con tàu đừng
đến, mong anh Phụ đổi ý trở về, nhưng chỉ là mơ ước. Anh đỏ Phụ đã lăn tay điểm
chỉ rồi. Anh đã giúi vào tay chị gái tờ giấy bạc con còng 5 đồng, nửa số tiền
bán đời mình để gửi về phụng-dưỡng bố. Tôi ôm-ghì lấy anh, khóc nức-nở. Một bàn
tay chắc-nịch kéo ra, ấn anh Phụ và toán phu vào trong toa sắt đen ngòm, cái
toa thường ngày vẫn dùng chở súc vật, khóa lại”.
Khác
với thơ của Hồ-Dzếnh, thường mang tư-tưởng lâng-lâng, bay bổng, và siêu-thoát,
truyện của ông đưa chúng ta vào một thế-giới khác, đầy nước mắt và đau-đớn hơn.
Càng đi sâu vào cuộc-đời hay Truyện Ngắn của ông (Tập Quê Ngoại),
càng bắt gặp ở đấy những cảnh đời bất-công, phi-lý. Chẳng thế mà, cuộc-đời của
ông được Đạo-Diễn Vương-Đức dàn-dựng, định quay trong một ngày thật gần, nhưng
không biết công-chúng có đón-nhận không, vì những người trẻ chưa quen với
tên-tuổi của ông, một NT/ NV Tiền-Chiến.Theo Báo Tiền-Phong, đây là cách
đánh-giá của giới phê-bình điện-ảnh, bộ phim chắc-chắn sẽ làm hao-tổn không ít
nước mắt của người xem vì những đoạn nói về hoàn-cảnh khốn-cùng của nhân-vật. Đạo-diễn
Vương-Đức cho rằng: "Có thể sẽ có người không đồng-ý với tôi về những hư-cấu,
sai-lạc hiện-thực, nhưng tôi muốn thể-hiện một cái nhìn riêng về cuộc-đời còn
ít người biết tới của nhà văn..."
Đọc “Sáng
Trăng Suông” bao giờ tôi cũng liên-tưởng đến bản nhạc “Chị Tôi” của
NS Trần-Tiến mà cảm-thương cho Chị đỏ Đương trong truyện.
Phải
bôn-ba với những nghề vất-vả để đổi lấy miếng ăn, áo mặc cho gia-đình, Hồ-Dzếnh
không có thì-giờ viết. Tác-phẩm của ông không nhiều (chỉ có 3 tác-phẩm đã in)
nhưng đủ để định giá-trị của ông trên thi văn đàn.
Hơn
70 năm qua, không nhiều thì ít, văn-thơ Hồ-Dzếnh đã ảnh-hưởng tới những người đọc
ông. Mỗi lần đọc, tôi lại thấy những nhân-vật ấy hiện ra trước mắt tôi, khi thì
lãng-đãng như sương-khói, khi thì mãnh-liệt như dòng thác-lũ không sao ngăn được.
Đọc xong, thả lỏng chân tay để:
“…Cho
nghìn sau… lơ-lửng… với nghìn xưa…’
Hay:
“…Nhớ
nhà châm điếu thuốc
Khói
huyền bay lên cây…”
Tài-liệu:
-Wikipidea.
-Các
trang Web liên-quan.
-Tuyển-Tập
100 Ca-Khúc Tiền-Chiến, NXB Mũi Cà-Mau, 2003.
-Những
Tình-Khúc Một Thời Vang-Bóng, NTG, Sở Văn-Hóa Thông-Tin QN-ĐN, 1989.
-Hồ
Dzếnh—Người Bạn Thân-Thiết Của Những Kẻ Lang-Thang, Du-Tử-Lê.
-Tuyển-Tập
Hồ-Dzếnh, NXB Văn-Học, 1988.
-Chân-Dung
Văn-Học, NXB Hội Nhà-Văn, 2001.
-thểthaovănhóa.vn,
Vy-Thùy-Linh, (?)
Hà-Việt-Hùng
No comments:
Post a Comment