__________________
Anh Lương Ngọc Thành- một cựu học sinh PTG Cần Thơ" và hiện đang sống và làm việc ở Kiên Giang
Hôm nay anh đến với Tha Hương với bài viết "Đi thăm Mẹ". Tha hương chân thành cám ơn anh
Xin trân trọng giới thiệu anh đến cùng bạn đọc bốn phương
TH
TH
******************
LƯƠNG NGỌC THÀNH
Ai
có mẹ đều phải thường xuyên đi thăm. Tôi đã vắng xa mẹ tôi 4 năm. Khi đi thăm
người, tôi đã có một hành trình ít có ai tưởng tượng ra được.
Một
lần chị tôi, trên đường đi về kinh tế mới Long Đất, ghé trường ĐH Sư Phạm Kỹ
Thuật Thủ Đức để thăm tôi. Chị ấy kể tôi cho tôi nghe cái nơi mẹ tôi đang ở: Ngả
ba kinh Quản Thống, Sóc Xoài, Hòn Đất, Kiên Giang - nơi tôi hứa chỉ sẽ đến sau
khi tôi tốt nghiệp. Được nhà trường tiếp tục đào tạo từ tháng 9,1975, tôi quyết
tâm tự lực- không để chuyện gia đình chi phối, không trở về gặp mẹ tôi cho đến
khi thành đạt. Trong khi chờ nhận quyết định phân công của nhà trường, tôi đã
xin phép ban quản lý ký túc xá để đi thăm bà mẹ ruột, ngày 12 tháng 9 năm 1979.
Từ
4 giờ sáng, tôi đã có mặt tại Xa cảng miền Tây để sắp hàng mua vé xe Rạch Giá.
Quá nhiều cầu nhỏ, quá nhiều ổ gà lớn và 2 cái phà quá tải đã khiến cho chuyến
xe chậm hơn nhiều so với mong muốn rất thông thường của đứa con đi thăm mẹ như
tôi. Đến 4 giờ rưỡi chiều, tôi mới đến bến xe Rạch Giá. Biết không còn kịp đò,
tôi đi xe lôi về bến xe Lam. Chờ thêm vài người hành khách đi trễ, bác tài mong
kiếm thêm vài đồng bạc lúc cuối ngày. Tôi ước gì có được khoản tiền ấy để tôi
yêu cầu ông ấy cho xe lăn bánh sớm hơn. Ngoài trời chuyển mưa rất to còn trong
lòng tôi thì có nỗi lo rất lớn. Nếu tôi không tìm được nhà mẹ tôi đêm nay, rất
có thể tôi được xem như một kẻ xấu, như một tên tù vượt ngục.
Chiếc
xe Lam khiến tôi khổ sở hơn chiều tối hôm đó. Nó cà giật cà giật như một con gà
bệnh,mắc giây thun, như gã say rượu chân hươu đá chân nai. Cơn mưa đổ xuống như
thác nước lớn trong mùa mưa. Hai bên đường không có một bóng người hay xe cộ
nào khác. Những ánh đèn dầu lù mù loé ra khỏi các khe cửa hớ hênh hoặc các vách
lá tềnh toàng làm cho tôi thêm lo sợ. Trên xe có cả thảy 7 người. Họ đã quen với
các chuyến xe chót như thế trong khi, với tôi, đó là chuyến xe kinh hoàng nhất
tôi từng đi. Tiếng máy xe nổ vang, trộn lẫn trong tiếng sấm chớp, tiếng mưa rơi
nặng hạt đập lên nóc mui xe, tiếng gió rít qua các khoảng cách giữa các ô cửa
kéo và tiếng đập hoảng loạn trong tim tôi tạo ra một bản hoà tấu kinh dị nhất
trong thế giới âm nhạc. Để tự trấn tỉnh tôi cố hình dung ra mẹ tôi lúc ấy. Bà
có thể ngồi bên bếp lò- được kê bằng các viên gạch thẻ, chụm các bó rơm nhỏ,
các khúc gỗ đước trong một cái chòi lá thấp nhỏ bé, không cửa sổ, không có
gian, buồng hoặc bàn ghế gì cả. Bà cũng có thể nằm thở dài trên một cái giường-
nẹp tre là cái vạt giường, miếng đệm bằng lát thay cho miếng nệm, bốn khúc gỗ
tràm to bằng bắp chân làm chân giường- cái giường ít có một hoạ sĩ trẻ tuổi nào
có thể vẽ ra được.
Khi
đó tôi thèm được đi trên cái xe đò 52 chỗ ngồi lao vun vút lúc xuống mấy con dốc
trên quốc lộ 20 đi Bảo Lộc. Tôi ước chi có một phép mầu đẩy chiếc xe lam cũ kĩ
chậm chạp chết tiệt này thật nhanh đến cái kênh Quản Thống gì đó để tôi gặp mẹ
tôi ngay tức khắc. Một người khách xuống xe dọc đường làm vơi đi một ít tải trọng
nhưng lại chất thêm lên một ít hoang mang lo lắng. Một người khách nào đó ngoắc
xe dừng lại- cũng là có thể là kẻ ngoắc tôi lại để hỏi như tát nước vào mặt
tôi:
“Đi đâu vào giờ này hả? Xuống đây làm gì hả”
Dọc
theo đừơng bộ đi Hà Tiên là một con sông dài song song. Từ Rạch Giá, cứ mỗi 3
hoặc 5 kí lô mét là một cây cầu- cầu số một- cầu số hai. Tôi hỏi thăm mới biết
rằng kinh Quản Thống nằm khoảng 2 phần ba tính từ cầu số 3 đến cầu số 4- chợ
Sóc Soài. Thẳng góc về phía Long Xuyên là các con kinh nhỏ, một đầu ra biển còn
đầu kia dắt vô khu tứ giác Long Xuyên. Về bên phía đầu kinh đổ ra biển là khu vực
dân cư của người Kh’mer và một số hộ nông dân nghèo.
Chiếc
xe qua cầu số hai một cách khá vất vả. Khi xuống dốc cầu, nó chạy nhanh hơn nhiều.
Vượt qua chợ Mỹ Lâm vắng ngắt, rồi chốc sau nó đổ lại bến xe. Mọi người trong chiếc
áo mưa lục đục xuống xe, không một tiếng chào, không một tiếng cám ơn. Bước xuống
xe nhanh nhẩu, mình trần, đầu trần, mặc cho nước mưa tạt rát trên gương mặt còn
búng ra sữa của tôi, tôi hỏi ông tài xế hom hem, đang co ro trong cái áo khoác
đẫm nước:
“Từ
đây đến kinh Quản Thống còn bao xa nữa vậy bác?”
“Khoảng 9 cây số.”
“ 9 cây số! Còn xe tàu gì đi đến đó không bác?”
“Trời tạnh ráo thì còn đón đò, xin quá giang được. Mưa giông như vầy thì
vô phương.”
Ông
ta, lộ vẻ nghi ngờ, đã hỏi nhỏ tôi:
“Cậu đi đâu giờ nầy có một mình vậy?”
“Cháu từ Sài Gòn về thăm mẹ cháu ở kinh Quản Thống, bên kia sông.”
“ Tôi cứ tưởng xuống đây để…gì gì đó chứ. Hồi nãy sao cậu không ngủ lại Rạch
Giá? Giờ này vô đó ớn lắm. Ghé nhà tôi nghỉ lại qua đêm đi. Sáng có đò sớm. Nhà
tôi gần đây nè.”
Tôi
linh cảm như có mẹ tôi đang chong đèn chờ tôi. Tôi biết mẹ tôi có thể thức trắng
đêm nay mong đợi tôi. Nếu tôi không đến được tối nay, mẹ tôi chắc vì buồn lo mà
già đi vài tuổi, tóc bạc đi quá phân nửa. Tôi lễ phép từ chối rồi chào ông tài
xế tử tế. Mặc cho mưa gió, tôi bước nhanh đi về phía trước.
Hai
bên đường các căn nhà lá đóng cửa im ỉm. Ánh đèn dầu yếu ớt như cuộc đời của một
kẻ đau bệnh. Tôi bước bì bỏm trên mặt đường có nhiều ổ gà, nay nằm chìm trong
nước mưa. Có khi tôi như trên đường, có lúc tôi như lội trong cái ao nhỏ. Đôi
giày da từ thời ông ngoại tôi còn thanh niên có thể là một vật gia bảo của ai
đó bổng trở thành một chứng nhân tội nghiệp cho chuyến độc hành của tôi. Tôi cảm
thấy hai chiếc giày như tăng lớn lên một cỡ, da giày mềm nhũn. Cái ba lô tôi
mang trên vai, mặc dù sũng nước trở nên nhẹ tênh như tôi đang cảm thấy mỗi khi
vượt qua một đoạn đường. Sau hai kí lô mét đầu, tôi vượt qua vài
chùm tre tầm giông nơi mà bóng tối trở nên khủng khiếp, nơi mà ai có cũng có thể
nghĩ ra những điều tệ hại, ma quái nhất. Mỗi khi có sấm sét, ánh sáng từ bầu trời
rọi rất nhanh xuống như để ra hiệu cho tôi, thúc đẩy tôi và cảnh cáo tôi. Một
tay bất lương nào đó bất kỳ có thể bất ngờ chạy vồ ra nắm lấy tay tôi, lôi tôi
xuống chiếc xuồng tam bản ọp ẹp và chèo thẳng đến một nơi hẻo lánh nào đó như một
vụ bắt cóc ngoạn mục. Điều thú vị nhất là không có ai trả tiền chuộc. Nếu có lục
soát hết người tôi, tên bắt cóc có thể tìm ra một số tiền mua được một bao thuốc
lá đen.
Có
một luồng điện khá mạnh chạy suốt cơ thể tôi như thể tôi bị sét đánh vậy. Tôi
muốn vụt bỏ chạy khi tôi nghe tiếng nổ giòn tan của một chiếc xuồng máy gần đó,
tiếng máy rất to. Tôi định la to lên để át tiếng mưa, tiếng động cơ:
“Ai đó cho tôi quá giang với.” hoặc “Cứu tôi với.” hay rất tội nghiệp:
“Tôi đi thăm mẹ tôi ở kinh Quản Thống, tôi không phải là kẻ xấu. Làm ơn
giúp tôi với!”
Tội
nghiệp tôi ư? Ông trời gầm một cái thật to, át tiếng kêu của tôi. Tiếp theo là
tiếng khởi động của chiếc xuồng máy, bỏ tôi lại một mình trên đường vắng trong
cơn mưa vẫn còn nặng hạt. Tôi tự vấn:
“Chẳng phải ta lâu nay bị bỏ rơi một mình hay sao? Chẳng phải ta đã một
mình vượt qua biết bao gian khổ hay sao? Chẳng phải ta vừa trải qua 4 năm học Đại
Học với một ít tiền học bổng nhưng với quá nhiều khó khăn. Nếu người chiến sĩ
nào đó sống sót được trong rừng một thời gian trước khi bị bắt, ta cũng có thể
đi bộ nhanh đến Kinh Quản Thống ấy trước khi bị ai đó chụp bắt.”
Tôi
như tiếp thêm sức mạnh. Tôi như được một liều thuốc tiên. Tôi như trẻ lại 5 tuổi.
Tôi muốn chạy thật nhanh đến cái kinh chết tiệt ấy, vừa chạy vừa la:
“Con về đây mẹ ơi! Con về đây mẹ ơi!”.
Vừa
đến đầu kinh, thay vì hỏi nhờ ai bơi xuồng qua sông, tôi muốn nhảy đùng xuống
và bơi ngay qua sông. Tôi muốn ôm ghì lấy mẹ tôi và cả hai cùng khóc nức nở. Cả
hai cùng không nói ra được một lời nào.
Qua
cầu số ba, trời vẫn còn mưa to, tôi vẫn một mình trên đường. Tôi thấy nhà dân rất
thưa thớt. Kinh Kiên Hảo thẳng tắp hướng về phía đất liền, hướng bên tay trái đổ
ra biển. Bên phải con đường, ít có nhà, chòi lá nên quang cảnh sáng sủa hơn.
Tôi không hề thấy mỏi mệt hay đói khát. Cái cảm giác đến nhà, gặp mẹ làm tôi
quên hết mọi thứ. Tôi bền bỉ như một lực sĩ đi bộ đường trường. Tôi biết đôi
giày sắp rời ra từng mảnh. Tôi biết có ai đang sắp đuổi bắt tôi. Tôi hình dung
mẹ tôi đang ngóng chờ tiếng gọi đò của tôi. Tôi vượt qua đoạn đường 3 kí lô mét
như người ta tản bộ trong một công viên nhỏ. Khi thấy một cụm mái nhà lá san
sát nhau và bên kia sông có một kinh nhỏ, tôi tự nhủ chắc là đây rồi. Tôi đi
nhanh hẳn lên như có ma đang đuổi theo ở ngay sau lưng. Tôi bỗng la lên thật
to- tiếng của ai đó kêu cứu lúc nửa đêm:
“Bà Sáu ơi! Bà Sáu ơi.”
Một
cánh cửa phên nhích lên khi có một giọng bên trong phát ra:
“Ai kiếm bà Sáu giờ nầy vậy hả?”
“Dạ, dạ, tôi là con của bà Sáu nè. Dì làm ơn đưa tôi qua sông giùm nhe.
Tôi xuống đây trễ quá. Làm ơn nhe.”
Đội nón lá lụp xụp, tay cầm cây dầm, người phụ nữ- như được mẹ tôi dặn dò trước
nhiều lần- không hỏi, nói thêm điều gì nữa, cẩn thận bước xuống chiếc xuồng nhỏ
được cột sát bên vách nhà và sẵn sàng đưa tôi qua sông.
Tôi
vội bước xuống, lòng nhẹ nhõm, vui như ] như người tù được đón sau một chuyến
vượt ngục gian lao. Khi qua được hơn hai phần ba con sông, trời còn mưa, trong
bóng tối đen như mực, tôi bỗng buột miệng kêu lên:
“Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi, mẹ! Con về đây mẹ ơi”.
Tiếng
kêu từ trái tim của một con chim lạc đàn gọi mẹ.
Không
ai từng nghe thấy. Không ai lập lại được như thế đâu!
Rạch
Giá 15-1-10
Lương Ngọc
Thành
2 comments:
Bài viết cảm động , đọan đừơng Tác Gỉa về thăm Mẹ cũng là đọan đừơng tui thừơng
hay về thăm quê của tui nhưng xa hơn chút nữa thời đó đừơng sá lồi lõm rất khó đi.
Bây giờ ngồi nhớ lại rất xót xa lúc đó ai cũng nghèo hết đời sống cơ cực không lối
thóat tương lai mù mịt...ai cũng tìm đừơng bỏ nứơc ra đi...Về thăm Mẹ vất vã như vậy
khi gặp lại Mẹ chắc là T/G hạnh phúc lắm !
Ngừơi Tha Hương
" Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi, mẹ! Con về đây mẹ ơi”.
Làm tôi nhớ chuyến xe lửa ngày mồng 5 do quái kiệt Trần văn Trạch trình bày , chiếc xe lửa ì ạch qua chặng đường dài tưởng chừng như không về đến nhà ga. Khi đến nhà Trần Văn Trạch cũng nói " má ơi! Con về đây má ơi! " nghe rất cảm động và tha thiết
Nói về ngày gần Tết , tôi nhớ một lần 30 tháng Chạp , tôi đi Giồng Riềng thâu tiền cho Bác gái của tôi . Nhà Bác gái bán hàng xén, tiệm nằm trên đường Phó Điều, ngó xéo qua rạp hát Châu Văn đối điện. Trước mặt tiệm là bến xe đò đi các quận Huyện của tỉnh Kiên Giang , các bạn hàng ở vùng quê thường hay tới bổ đồ về bán theo kiểu mua chuyến nầy, trả tiền chuyến trước ( mượn đầu heo nấu cháo ) , sau khi giúp Bác tôi bán hàng , đến xế chiều Bác nhờ tôi đi thâu tiền ở Giồng Riềng . Xe chạy ọc ạch , người đông nghẹt, thở không ra hơi . Tới nơi thì đã chiều , đến thâu tiền họ nói chưa có , hẹn qua Tết . Quay ra thì thấy hỏng còn xe . Chết rồi làm sao mà về . Lúc đó còn học tiểu học, tuổi khoảng 13, 14 . Lòng vô cùng lo sợ , đường từ chợ Giồng Riềng ra lộ lớn thì xa và vắng vẻ, không một bóng người , ai cũng ở nhà lo chuẩn bị cúng giao thừa . Biết sao bây giờ, đành phải vừa đi vừa chạy ra lộ lớn vừa thở hổn hển, ánh hoàng hôn dần khuất cõi trời xa . Tôi chẳng nhớ chạy bao lâu , có đồng hồ đâu mà biết thời gian , thì ra đường lớn . Nhìn quanh vắng ngắt , nhìn về xa xa hướng xe chạy về chợ Rạch Giá, miệng thì thầm cầu nguyện, không bao lâu có bóng xe chạy tới , mừng quá thật là " hoàng thiên bất phụ hão tâm nhơn . Thấy xe chạy gần tới, tôi vẩy tay . Xe ngừng lại tôi trình bày hoảng cảnh xin quá giang, bao nhiêu tiền cũng được , tui cần về nhà ăn Tết tối nay . Ông tài xế ưng thuận, tui nhảy lên xe thở phào nhẹ nhổn . Tới nhà tui la lên : má ơi! Con về rồi má ơi ! Lì xì cho con má ơi ! Hi hi hi . ...
Người may mắn
Post a Comment