Nghệ sĩ Việt Dzũng tên thật là Nguyễn Ngọc Hùng Dũng, sinh năm 1958 tại Saigon, cựu học sinh Lasan Talberd. Năm 1975 vượt biên đến Singapore sau đó xin đoàn tụ cùng gia đình vào năm 1976. Những năm đầu tại Hoa Kỳ, Việt Dzũng đã sáng tác và đoạt giải Iowa Grand Ole Opry, và sau đó hợp tác với một số nhạc sĩ Mỹ ra băng nhạc bằng Anh ngữ “Children of the Ocean.”
Đối
với nhiều người Việt hải ngoại khi phải rời bỏ quê hương, vượt biển ra nước
ngoài trong cuối thạp niên 1970 và đầu thập niên 1980, họ đã không khỏi nhỏ lệ
mỗi khi nghe bản nhạc “Một Chút Quà Cho
Quê Hương” do Việt Dzũng sáng tác và bản nhạc “Saigon Vĩnh Biệt” viết chung với Nhạc sĩ Nam Lộc. Anh cũng là tác
giả những nhạc phẩm được nhiều người yêu thích như Tình Ca Cho Nguyễn Thị Saigon - Lời
Kinh Đêm hay Một Bông Hồng Cho Người
Ngã Ngựa, Bên Đời Hiu Quạnh và rất nhiều ca khúc khác, tổng cộng có đến hơn
450 bài. Việt Dzũng thường hát chung với ca sĩ Nguyệt Ánh những nhạc phẩm đấu
tranh.
Việt
Dzũng đã từng làm chủ bút nguyệt san Nhân
Chứng ở Nam California và ra đĩa nhạc với tên Trung tâm Việt Productions.
Sau một thời gian làm phóng viên và xướng ngôn viên cho đài Little Saigon
Radio, năm 1996 Việt Dzũng lập đài phát thanh Radio Bolsa, cùng với Minh
Phượng, hai chị em luôn truyền tải đến đồng hương những tin tức nóng bỏng về
thời sự và các sinh hoạt cộng đồng.
Năm
2010 Nghị Sĩ Tiểu Bang Lou Correa đã trao tặng ca nhạc sĩ Việt Dzũng giải
thưởng “Community Heroes” vì thành
tích đóng góp tích cực cho cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại.
Anh
đã vĩnh biệt cộng đồng và những người thân vào lúc 10 giờ 35 phút sáng thứ Sáu
20-12-2013 tại Fountain Valley Hospital, để lại bao tiếc thương cho mọi người (Internet).
Danh
sách bài hát: Bên đời hiu quạnh (phổ thơ Hoàng Ngọc Ẩn), Bài tango cuối cùng, Có những cuộc tình
không là trăm năm, Dấu chân của biển, Giòng cuồng lưu, Hát cho người dân oan,
Khóc ru đời trinh nữ, Lời kinh đêm (ý thơ Mãn Thuận), Một chút quà cho quê hương,
Mời em về, Noel rồi! Đừng hờn anh nữa bé ơi, Ngày con về, Tình ca cho Nguyễn
Thị Sài Gòn, Tình như cây cà-rem, Thung lũng chim bay, Và em hãy nói yêu anh,
Những đứa con của Mẹ.
Băng và
đĩa nhạc: Anh vẫn còn thương, Bên bờ đại dương, Bên em đang có ta, Hát cho Tự do, Hùng
ca quật khởi, Lên đường, Mình ơi, đưa em về quê hương, Quê hương và em, Ru em
sông núi đợi chờ, Tuổi trẻ về nguồn,
Thánh ca vào đời, Thắp lửa Tự do, Thắp lửa yêu thương, Trái tim ở lại, Vuốt
mặt. (Bách Khoa Toàn Thư)
KỶ NIỆM VỚI
CA NHẠC SĨ VIỆT DŨNG
Những ngày cận Giáng Sinh, Tết Dương
lịch xứ người thật ồn ào náo nhiệt. Ở Mỹ mỗi năm có nhiều lễ nhưng theo tôi
nghĩ, chỉ có ba (3) lễ lớn, mà dân bản xứ rộn ràng chào đón nhứt đó là lễ:
Giáng Sinh (Sinh nhật Chúa) Thanksgivings (Tạ ơn) và July 4 (Độc lập).
Dựa hơi vào lễ của người, ngoài những ngày
nghỉ được trả lương, thì năm nào thằng con trai út của chúng tôi cũng lấy thêm
những ngày nghỉ hè, rước cha mẹ qua vùng cháu làm việc nghỉ ngơi, đoàn tựu.
Những ngày đến thăm con, ăn uống thì khi cháu nấu ở nhà, khi thì ăn ở các hàng
quán của người nước khác đến lập nghiệp trên xứ Hiệp Chủng Quốc nầy, như là:
Thái, Lào, Nhật, Mông Cổ, Tây Tạng, Pháp… cho biết hương vị món ăn của nước
người ta. Và cháu đưa chúng tôi đi thăm thú những thắng cảnh thiên nhiên đẹp,
lạ mắt ít có ở các vùng khác, do người làm ra. Thí dụ như mùa Giáng Sinh có nơi
mắc cả trăm ngàn bóng đèn màu sắc rực rỡ... Những thiện nguyện viên đến từ ba
tháng trước Noel giúp hàng ngày cả trăm người trong suốt mùa lễ. Đến gần Giáng
Sinh đèn màu được thắp sáng từ 20 tháng 12 cho đến cuối tuần giữa tháng một của
năm mới.
Thú
thiệt, không giấu chi với quý vị đó là thằng con độc thân, có việc làm tốt và
biết nghĩ đến cha mẹ. Cho nên chúng tôi
mới được hưởng phước, một năm 3 tuần với cháu, sau khi ra đại học và có việc
làm. Làm cha mẹ mà “nước mắt chảy xuống
chớ không chảy lên”, chỉ mấy ngày ngắn ngủi thôi mà chúng tôi cảm thấy hạnh
phúc quá trời quá đất! Không còn nhớ chi nuôi con khôn lớn nên vóc nên hình, và
thiệt vất vả trong những năm dài chị em chúng nó còn đi học...
Nhớ ra thật giựt mình, vào lúc đó sao mà
khỏe quá, khiến vợ chồng tôi làm mệt cũng không dám nghỉ! Vì nếu nghỉ thì không
đủ tiền, mà không đủ tiền trang trải chi phí cho các con trong việc học hành và
linh tinh suốt những năm dài ở Đại học, thì chúng sẽ gián đoạn học hành… thời
gian ra trường sẽ kéo dài lê thê! Và cũng có thể chúng nản chí xao lãng việc
học hành… Vậy thì làm sao nghề nghiệp chuyên môn, để bảo đảm cuộc sống vững
chắc trong tương lai của chúng ở mai sau! Sau khi cháu ra trường đi làm, cứ mỗi
năm sau tuần lễ thứ nhứt của tháng mười hai (December) Cháu mua vé máy bay hai
chiều, đi là gần giữa tháng và về là ngày cuối tháng (31 tháng 12). Mặc dù là
con trai, nhưng suốt ba tuần chúng tôi ở đó, từ nấu ăn cho đến rửa chén bát,
giặt giũ… cháu đều giành làm hết, không để cha mẹ rớ vào thứ gì dù việc nhẹ
cũng vậy.
Đôi khi thấy con lu bu với việc làm bếp,
tôi vui vẻ nhẹ giọng bảo:
- Để
mẹ phụ với con, bây làm chậm chạp khiến tao thấy ngứa tay muốn làm quá đi...
Thằng
nhỏ cười hề hề:
- Một năm con dành chỉ được mấy tuần để ba mẹ
qua đây hưởng nhàn... Vây xin ba mẹ ngồi xem truyền hình, đọc báo hay điện thư
gì đó... Còn mọi việc khác để con lo... Mẹ à lần nầy làm bếp chậm, lần sau con
sẽ làm nhanh đó mẹ...
Nghe
con nói, phu quân tôi gật gù có vẻ cảm động lắm, đôi mắt đỏ rưng rưng niềm vui
và hạnh phúc bên thằng con út cưng vàng, cưng ngọc, cưng hột xoàn, cưng cẩm
thạch… của ông. Chồng tôi an nhiên tự tại bước ra sân nhìn trời xanh mây trắng.
Ánh nắng chói chang ấm áp dễ chịu ở vùng sa mạc Arizona dù đã vào chánh mùa
đông.
Mèn ơi, nếu ở các vùng khác vào Giáng Sinh
(mùa đông) thì đừng có hòng ăn mặc bình thường mà ra sân ngắm nghía trời mây,
nghe gió thổi rung cây chanh, cây cam, cây bưởi… cành lá chạm vào nhau xào xạc
quanh nhà như vậy được đâu! Thật thế, bởi ở các nơi như miền Bắc nước Mỹ, hay
Trung Tây Hoa Kỳ, Chicago, Michigan, Minnesota... thì đầu tháng mười một đã
lạnh thấu xương, tuyết rơi dài dài ngập đường ngập lối rồi. Thời tiết lạnh lùng
từ cuối mùa thu, mùa đông và có khi chồm qua cả tháng của mùa xuân nữa...
Chúng tôi đến vùng sa mạc trốn tuyết mấy
tuần cũng đỡ thương anh hùng lắm. Được con đưa đi chơi, thăm những thắng cảnh
trong tiểu bang Arizona, còn mệnh danh là thung lũng Phượng Hoàng. Có lần chúng
tôi đi dạo thuyền ở suối nước trên những núi cao cách mặt đất năm, sáu cây
số... Đi thăm kỳ quan Mỹ Grand Canyon vào sáng sương mù, nhìn mặt trời lên như
chốn bồng lai tiên cảnh trên thượng giới (trong các phim thần thoại) thật là
diễm tuyệt! Chúng tôi đi thăm vùng người da đỏ sinh sống...
Trong thời gian hạnh phúc bên con, đôi khi
tôi nghĩ rằng đó là cháu chưa có gia đình riêng, thì chăm lo và nghĩ đến cha mẹ
như vậy. Chớ khi có vợ rồi thì... biết đâu, phải biết đâu!
Ông xã tôi nửa đùa nửa thật, nói riêng với
vợ:
-
Được lúc nào thì hay lúc đó, chớ khi con có vợ rồi thì đừng mong hay
nghĩ ngợi lung tung, khi nó không rước cha mẹ qua nữa! “Thôi hãy bỏ qua đi Tám” đừng buồn nghe em...
Tôi gật nhẹ đầu bùi ngùi cảm thông! Dù
không nói ra nhưng riêng tôi cũng âm thầm chép miệng thở dài cảm thấy chột dạ
và buồn buồn làm sao! Nhưng rồi tôi lại thầm cười, tự trách thiệt sao mình có ý
nghĩ ích kỷ như thế! Con cái còn nhỏ thì bổn phận cha mẹ phải nuôi, lớn lên đi
làm rồi có gia đình, bận rộn thê nhi... cũng như mình chớ có khác chi đâu! Sanh
ra kiếp con người thì luôn xoay trong cái vòng lẩn quẩn như vậy có chi là lạ!
Chỉ cầu mong sao các con nên người tốt, đừng để cha mẹ phiền là hạnh phúc lắm
rồi, chớ không nên mong ước gì thêm mà tự gây buồn cho mình.
Nhờ Ơn Trên đặt để, chúng tôi có phước hơn
một số anh, chị, em, họ hàng, và bạn bè, chòm xóm... Là các con của chúng tôi
rất ngoan và thương kính cha mẹ. Mặc dù các cháu tay làm hàm nhai, chớ không có
tiền hô hậu ủng giàu có như các con của những người thân quen đó.
Năm nay, thằng con đưa vợ chồng tôi lên
nghỉ trong một căn nhà nhỏ ở vùng núi (cháu mướn một tuần) phải mất ba giờ (3
giờ) lái xe mới đến ngôi nhà nghỉ ở vùng du lịch Sedona (thuộc Arizona). Đó là
ngôi nhà sàn cất bên sườn núi. Mặt sau nhà sát cánh rừng thưa có cây xanh lá
thắm và gió thổi vi vu lào xào suốt ngày đêm. Nhìn qua khung cửa sổ bên kia là
dòng suối nằm dưới rặng thông xanh cao chót vót, in bóng nước trong leo lẻo.
Chỗ trũng lớn lao xao chấp chóa đầy nước là cái hồ nhỏ lác đác vài con vịt trời
đang bơi lội. Vào lúc nắng lên, trời trong mây tạnh có người ngồi dưới bóng cây
câu cá...
Phu quân tôi mỉm cười ý nhị:
-
Ngư ông ngồi bên hồ chắc là “câu
thời câu vận” chớ nước hồ trong vắt như mắt mèo thì làm sao có cá mà câu...
Tôi cũng đồng tình với chồng, rồi nhẹ
giọng:
- Em
cũng nghĩ như vậy! “Nước trong xanh nên
để dành tưới hẹ/ Nước đục ngàu mới có cá bẹ, cá trê...” Mùa đông mà nhiều
du khách lớn tuổi (hưu trí) cũng đến đây! Anh thấy đó, họ thả bộ quanh bờ suối
để hưởng không khí thiên nhiên tươi mát, yên tịnh nơi miền đồi núi non hùng vĩ
của tiểu bang sa mạc nầy.
Vùng Sedona là một trong những nơi nổi
tiếng đẹp của tiểu bang Arizona nói riêng, và nói chung là cho nước Mỹ. Khi ánh
bình mình lên chiếu rọi, cho đến hoàng hôn khuất sau những dãy đồi xa. Mỗi một
hướng đồi núi có mỗi màu sắc khác nhau và thay đổi theo từng thời gian sáng,
trưa, chiều, và thời tiết mưa, nắng… trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông… Cùng
với sự cảm nhận của mỗi người mà màu sắc đó, và hình dáng đó sẽ biến hóa đổi
thay, và vị trí nơi ta đang ngắm nhìn... Trên bầu trời quang đãng, mây ngũ sắc
từng cụm dầy lác đác có màu xanh bích ngọc. Thằng con chạy xe chầm chậm chở vợ
chồng tôi ngắm núi đồi Sedona trong màu nắng đẹp. Có lúc chúng tôi cùng xuống
xe thả bộ đi dạo quanh con suối dài dọc theo đường lộ nhỏ ngập lá rừng héo úa,
quanh co, và có cây cao hai bên gie bóng mát. Suối nằm quanh cặp sát uốn theo
vách núi và ngang qua công viên nhân tạo có những bông hoa nở trái mùa... Mà ở
các vùng lạnh thời điểm nầy không làm sao có.
Sáng nay mọi người đã thức, tôi còn nằm
nướng và mỉm cười vu vơ, nhớ đến cái ngày hôm nay “Ngày hai mươi, tháng mười
hai, năm một ngàn chín trăm sáu mươi chín (20-12-1969)” Cái ngày mà trong
đời vợ chồng tôi không quên được! Nghĩ lại thì thời gian qua quá mau, mới mới
đó mà đã mấy mươi năm rồi...
Thức trễ hơn chồng con, nên tôi còn đang
ngồi ăn lót lòng ấm áp cạnh lò sưởi lửa cháy phừng phừng và than hồng reo tí
tách! Thằng con thì đang lúi húi pha cà-phê cho mẹ. Ôi mùi cà-phê thơm tho lan
tỏa khắp căn phòng khách rộng, ăn luồn với nhà bếp, và phòng ngủ cao trên gác.
Đối diện chỗ tôi ngồi là cái bàn viết rộng, được đánh vẹt-ni màu nu sậm, bóng
ngời.
Chàng của tôi hôm nay thức sớm nên đã ăn
sáng xong, đang rị mọ, và chăm chú xem điện thư trong máy vi tính…
Bỗng ông thảng thốt kêu lên:
-
Trời ơi! Việt Dũng chết rồi!
Tôi chưng hửng! Mở to mắt:
-
Ông nói cái gì, có lộn không đó ông tía...?
Đẩy ghế đứng lên, tôi đi nhanh về phía
chồng. Trong máy vi tín hiện rõ ràng dòng chữ báo tin: “Việt Dũng đã qua đời Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 20, tháng 12 năm 2013”
Tôi như té ngồi xuống ghế! Thiệt là một tin sét đánh ngang tai! Dù không bà con
thân thuộc, nhưng tin Việt Dũng qua đời khiến lòng tôi vô cùng xao xác, như đã
mất đi người thân của chính mình!
Ngược dòng thời gian tôi nhớ không lầm là
vào đầu tháng 1 (dl) năm 1968. Tôi được nhận vào làm y tá ở phòng mạch bác sĩ
Nguyễn Ngọc Bảy. Phòng mạch nằm trên đường Lê Văn Duyệt nối dài (lâu quá tôi
không nhớ có đúng không?) Vì chỉ làm có mấy ngày thì có sự vụ lệnh của Bộ Y Tế
cho tôi về nhận việc ở Ty Y Tế Định Tường.
Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, người cao lớn nước
da ngăm. Mũi cao, mắt sáng, tóc luôn cắt ngắn kiểu nhà binh. Bà xã ông là một
nữ lưu rất xinh đẹp, và là đương kim giáo sư dạy ở trường nữ Trung học Gia
Long. Trường nầy còn có biệt danh thơ mộng nữa, là trường nữ “Trung học Áo Tím”.Thuở đó thỉnh thoảng
có hôm sáng, có hôm chiều… bà bác sĩ Bảy ghé qua phòng mạch của chồng. Khi thì
bà đến với cô gái lớn của ông bà chừng mười tuổi, cô còn trẻ mà có nét trang
đài, và rất xinh. Khi thì bà đến với cậu con trai nhỏ có khuôn mặt điềm đạm,
phúc hậu, thanh tú, đôi mắt tròn to, và miệng cười chúm chím rất dễ thương. Mà
các chị y tá làm lâu năm ở phòng mạch bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy, đã bảo:
-
Thằng bé cái mặt thật là dễ thương và đẹp trai... Phải chăng con người
đều có số trời đã định? Cha là bác sĩ, mà thằng con lại bị tật nguyền... Tội
nghiệp thằng nhỏ phải đi bằng cây tó...
Làm y tá cho phòng mạch bác sĩ Nguyễn Ngọc
Bảy không bao lâu, chiều hôm đó trước khi phòng mạch đóng cửa. Tôi khép nép đến
lí nhí trong cổ họng, xin bác sĩ nghỉ việc.
Bác sĩ có vẻ không vui, nghiêm giọng hỏi:
- Vì
lý do gì mới vào làm mấy bữa chị lại xin nghỉ? Làm sao tôi mướn kịp người khác
để thế cho chị đây?
Tôi sũng giọng:
-
Xin lỗi bác sĩ! Tôi ra trường đã bốn tháng chưa có giấy thông báo đi
làm, thì nhà của ba má tôi ở dưới quê bị cháy! Vì nằm giữa hai bên đánh nhau!
Tôi phải ở lại Sài Gòn xin việc để kiếm tiền tiêu dùng trong lúc chờ đợi đi
nhận việc, mong bác sĩ thông cảm cho...
Có lẽ hiểu hoàn cảnh của tôi, bác sĩ Bảy
ngoài trả cho mấy ngày lương làm việc, còn tặng thêm tôi năm mươi đồng (50$)
Thuở đó xe lô Minh Chánh chạy tuyến đường Sài Gòn về Mỹ Tho mỗi chuyến chỉ có
mười lăm (15$) đồng thôi.
Trước khi tôi ra về bác sĩ còn gọi lại,
bảo:
-
Tôi có mấy người quen làm ở bệnh viện Mỹ Tho. Chị có cần gì tôi có thể
gọi điện thoại nói chuyện với họ...
- Cảm ơn bác sĩ có nhã ý... Nhưng để trình diện
coi ra sao đã, chừng nào cần tôi sẽ nhờ bác sĩ giúp đỡ cho... Cảm ơn bác sĩ...
Mặc dù Mỹ Tho là một thành phố nhỏ, tỉnh
nhỏ dân số ít... Mỹ Tho xa biển không gần rừng hay đồi núi chập chùng... Nhưng
Mỹ Tho có vườn cây ăn trái, có ruộng đồng sát bên Đồng Tháp Mười nổi tiếng cá
đồng và ruộng đất “cò bay xoải cánh, chó
chạy cong đuôi” Vùng Đồng Tháp Mười nước nổi quanh năm, là địa thế rất tốt
cho bọn giặc lẩn trốn... Cho nên dù Mỹ Tho nhỏ hơn các tỉnh lỵ khác, nhưng giặc
giã vẫn triền miên...
Trong
một nước đang chiến tranh, so với các ngành nghề dân sự khác thì nhân viên làm
việc ở bệnh viện lúc nào cũng hết sức bận rộn! Nhà thương ở trại ngoại khoa
không bao giờ có giường trống cho bịnh nhân mới, đôi lúc phải kê thêm giường
bịnh ngoài hành lang. Thỉnh thoảng y tá chúng tôi còn được điều động qua giúp
cho bệnh viện dã chiến bên quân y.
“Đất
nước lâm nguy/ Thất phu hữu trách” gia đình nào ở miền Nam cũng có thân nhân, con em mình trong quân ngũ.
Về Mỹ Tho làm việc chưa tròn năm thì tôi có người yêu nơi vùng đất hứa Bến Tre!
Chạy trời không khỏi nắng, hôn phu tôi cũng
là một quân nhân trong đoàn quân thiện chiến của Sư đoàn 21/BB có biệt danh là “Sét Miền Tây” đóng quân ở miệt rừng U
Minh Thượng, U Minh Hạ (Cà Mau). Cho nên thuở đó bản nhạc “Giờ Nầy Anh Ở Đâu” nhạc và lời của nhạc sĩ Khánh Băng, tôi thường
hát nho nhỏ đủ mình nghe... Bởi nếu tôi hát lớn họng thì gà bay, chó chạy... vì
giọng ca tôi dở ẹt hà! Trong bài có câu tôi ưng ý nhứt, thuộc nằm lòng, mà khi
buồn, lúc vui... tôi cũng có thể ngâm nga cho mình nghe để đỡ nhớ, đỡ thương: “...Giờ này anh ở đâu?/ Pleiku gió núi biên
thùy/ Giờ này anh ở đâu?/ Miền Trung hỏa tuyến địa đầu/ Giờ này anh ở đâu?/ Cà
Mau tiếng sét U Minh rừng/ Anh ở đâu? ú u ù ... Anh ở đâu?/ Dù rằng anh ở đâu,
Anh ở đâu, vẫn yêu anh hoài/ Vẫn yêu anh hoài, yêu suốt đời .../ Vì lời thề xưa
nở trên môi/ Và một tình yêu đã lên ngôi/ Kỷ niệm đầu tiên sống trong tôi/ Trên
đường ta bước chung đôi...”
Để rồi
vào mùa Giáng Sinh, “ngày 20 tháng 12,
năm 1969”, người nữ cứu thương đó từ tạ mộng mơ đi lấy chồng! Và sau những ngày nghỉ phép hôn phối,
chàng lính chiến SĐ21/BB trở về đơn vị, dong rủi mài miệt chốn sơn khê... vì
quê Nam từ lâu đã bị Cộng sản khơi ngòi chiến tranh!
Cho đến
“Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972. Sư Đoàn 21/ BB
tiến quân về giải tỏa An Lộc. Trong trận ác chiến oai hùng, anh dũng hiên ngang
kéo dài đó... chàng của tôi trở về gia đình bằng:“Cây nạng gỗ/ Bằng chiếc xe
lăn và bằng chiến công đầu...” Chàng đã bỏ lại chiến trường An Lộc hơn nửa thân
thể mình (giải ngũ với cấp độ tàn phế 70%).
Theo
vận nước nổi trôi, miền Nam nước Việt, bị Cộng sản và Việt Cộng cưỡng chiếm ngày 30 tháng 4 năm 1975! Kể từ đó quê
hương chúng ta hoàn toàn nằm trong tay thống trị của Việt Cộng và Cộng sản. Dù
đã tàn phế, nhưng phu quân tôi cũng bị Việt cộng tập trung tù đày trong cải
tạo. Khi chàng được thả về, gia đình chúng tôi bốn người (hai vợ chồng và hai
đứa con) đùm túm vượt biển, và thiệt là may mắn vượt thoát!
Sau chuyến hải hành thừa chết thiếu sống,
gia đình tôi lên được lên bờ của nước thứ hai Indonesia. Những tháng ngày sống
lang thang từ đảo nầy qua đảo khác ở Nam Dương quần đảo. Cho đến một ngày đẹp
trời dài trên dưới một năm, và đầu năm 1980 gia đình tôi được vào Hoa Kỳ, sống
ở vùng đất lạnh thấu trời nhưng tình nồng ấm đó là Chicago (Illinois).
Đến xứ người, ba năm sau chúng tôi mới tạm
thời ổn định dễ thở hơn hai năm đầu một chút! Nghĩa là hai vợ chồng có công ăn
việc làm, con cái vào trường học bình thường theo cuộc sống nhịp nhàng, đều đặn
mỗi ngày như mọi ngày ở xứ người ta. Lúc bấy giờ chúng tôi mới tỉnh táo mà nghĩ
đến chuyện nầy, đến chuyện kia...
Thỉnh thoảng phu quân tôi chở cả gia đình
đi chợ Việt Nam ở thành phố Chicago để ăn hàng. Chợ cách nhà chúng tôi chừng
bốn mươi lăm (45) phút đường xa lộ, và khoảng một giờ đường trong (nhiều đèn
xanh đèn đỏ). Nơi đó có tiệm bán chè, cháo, bánh bò, bánh da lợn... chả lụa, bánh
ướt… ăn liền, hoặc mua đem về nhà để dành được hai ba bữa! Còn các thứ như rau
cải, thịt heo, thị bò, gà, tôm, cá... chúng tôi có thể mua ở các tiệm Mỹ, Phi,
Tàu... ở gần nhà tươi và ngon.
Biết rằng chợ Việt ở xa, nhưng chúng tôi
cũng đến để tìm hương vị nào đó cho tinh thần có phảng phất một chút quê hương
Việt Nam. Như là tờ báo tháng, báo tuần, hoặc lượm được tờ bản tin Việt ngữ
trong các tiệm... Quý lắm, đem về vợ chồng xem từ đầu chí cuối không bỏ sót một
chữ kể cả rao vặt, quảng cáo... sau đó cẩn thận để vào kệ sách lưu trữ, để dành
tặng đồng hương có người chưa đọc.
Ở vùng xứ lạnh tình nồng Chicago, thuở đó
Tết Nguyên Đán năm nào cũng do kháng chiến tổ chức ăn Tết đúng ngày (Mùng một
Tết). Dù rằng chúng tôi là người xa xứ, nhưng mỗi năm cũng xin nghỉ mấy ngày để
ăn Tết. Năm nay sớm biết ngày giờ và địa điểm tổ chức lễ Tết. Cho nên hôm nay,
chúng tôi khăn áo chỉnh tề đưa các cháu đến trường, thì chạy thẳng một lèo
xuống dự lễ Tết Việt Nam.
Vào thập niên 80 người Việt tha hương ở
Chicago ít ỏi lắm. Họ đa số là du học sinh đến trước 1975, còn lại đa số là
vượt biên, vượt biển... như chúng tôi. Mấy năm sau nầy, người Việt đến nhiều
theo diện: Gia đình bảo lãnh, diện con lai, diện H.O
Những ngày Tết của chúng ta luôn lọt vào
chánh mùa đông của Mỹ. Chicago mùa đông lạnh tái tê, lạnh teo phèo, teo phổi...
Dù có áo quần chống lạnh đặc biệt, chúng ta cũng không thể nào chịu đựng nổi
cái rét buốt đứng nơi bốn bề đều lạnh, dưới độ đông lạnh của nước đá. Cho dù
đứng ngoài trời chừng ba mươi, hoặc bốn mười phút, cũng không chịu được, thì
đừng nói chi lễ Tết kéo dài cả ngày trời. Nên ở vùng lạnh Chicago những tổ chức
quy tựu đông người thì thường trong phòng thể thao trường Trung học, nhà hàng
lớn, nhà thờ, hoặc những cái “ball room” của Mỹ để có đầy đủ tiện nghi như là
bãi đậu xe, khán đài, phòng vệ sinh, máy sưởi ấm...
Không biết Chicago tổ chức bao nhiêu lần
Tết rồi, nhưng riêng với vợ chồng tôi thì đi dự năm đó là cái Tết đầu tiên. Vừa
vào cửa chúng tôi bước lên thang lầu bằng đá rộng, còn mấy bậc nữa thì đến hội
trường tổ chức Lễ Tết Việt Nam. Ngoài người Việt Nam lưu vong, còn có một số
người Á Đông như: Miên, Lào, Thái, Phi... cũng đến dự lễ Tết của chúng ta. Bỗng
lồng lộng bên tai một giọng dõng dạc của người điều khiển chương trình buổi lễ.
Tôi không vội bước vào mà dừng hẳn lại lắng nghe, hội trường hiện có trên năm
sáu trăm người tham dự hội Tết (thuở đó như vậy là đông lắm rồi). Tất cả mọi
người trong hội trường đồng thanh ca bài Quốc Ca Việt Nam. Điệu nhạc, lời ca
trầm bổng, hùng hồn... đã làm lòng tôi xúc động! Dĩ vãng xưa chợt quay về,
khiến tôi không sao cầm được dòng lệ chảy dài xuống má...
Thuở còn học Tiểu học, rồi Trung học...
sáng nào bọn học trò chúng tôi cũng được cô giáo sắp ngay hàng thẳng lối, để
chào cờ và hát Quốc ca... Từ ngày Cộng sản, Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam đến
nay đã bao nhiêu cái Tết lặng lẽ đi qua. Gia đình tôi bôn đào đến được xứ người
tự do… nên chúng tôi mới được nghe, được hát lại bài quốc ca thân thương của
nước mình, thì làm sao tôi không chạnh lòng xúc động, thổn thức, mừng tủi,
nghẹn ngào.
Bên ngoài trời Chicago nắng ui ui, mây xám
hạ thấp giăng giăng u ám nhòa nhạt. Theo cơn gió lạnh hắt qua từng mảng tuyết
lao chao, bay bay, mờ mịt không gian giá lạnh. Trong nhà lò sưởi ấm áp chạy hai
mươi bốn giờ suốt cả mùa đông, tôi chồm quơ cái khăn máng gần đó lau vội dòng
nước mắt, sau khi nghe bài “Một Người
Mang Tên Quốc” Nhạc và lời sao mà thống thiết, nức nở, nghẹn ngào… qua
tiếng hát của ca sĩ tài danh thời đại.
Mỗi ngày như mọi ngày tôi đi làm về, lúc
nào cũng lu bu nhiều công việc! Nhứt là lo buổi cơm chiều cho chồng con, kẻ đi
làm người đi học về… đang ngồi chờ ăn. Phụ nữ ở xứ nầy, ai sung sướng rỗi nhàn
đâu không biết, với riêng tôi sao mà bận rộn quá chừng chừng đi thôi! Ngoài
công việc mỗi ngày tám giờ ở sở, về còn nhiều việc nhà phải làm nữa... Đôi khi
ham tiền, tôi còn “cày” thêm mấy giờ phụ trội ngày thứ bảy. Để mỗi giờ làm thêm
được lãnh gấp rưỡi (Thí dụ, mỗi giờ làm lãnh 10$ phải làm 40 giờ/ Làm ngoài 40
giờ giờ đó, thì mỗi giờ làm được lãnh 15$) Như vậy ngon “hơ” tội gì mà không
làm nhỉ! Có thêm tiền, phần ăn uống của chồng con thêm phong phú hơn là cái
chắc... Cho nên ở nhà vừa làm việc nầy chưa xong thì nghĩ đến việc khác phải
làm tiếp theo. Bởi thế tôi không đủ giờ ngủ và thiếu cả giờ ăn… Ở Mỹ câu “thời giờ là tiền bạc” thiệt trúng ngay
bon, trúng phong phóc đó quý vị ạ!
Thiệt tình không giấu giếm gì với quý vị!
Số là ông chồng tôi biết vợ mình, và các con biết mẹ chúng thường xuyên đi làm
thêm ngày thứ bảy. Trong khi tôi đội tuyết giá lạnh lùng trên đường đi thì cha
con phè cánh nhạn an giấc nồng ngủ trưa trờ trưa trật! Và khi thức dậy thì trên
bàn mẹ chúng đã bày sẵn những món ăn sáng, cà-phê, nước trái cây… cho cha con.
Thế mà chẳng ai hề khen ngợi hay đếm xỉa đến người phụ nữ nầy cả!
Ấy vậy, hễ phu quân tôi năm khi mười họa đi
làm vài giờ phụ trội… thì đám con bu quanh ba, đứa đấm lưng, đứa bóp vai, và ồn
ào lên như cái chợ: “Tội nghiệp ba làm
nhiều quá! Tội nghiệp ba cực khổ! Tội nghiệp ba, tội nghiệp ba...” Tôi nguýt
cha con chúng con mắt bén như dao cạo râu của mấy ông thợ hớt tóc, và chừ bự
cái mặt trề miệng dài cả thước: “tội nghiệp ba, tội nghiệp ba…” Bởi tôi thấy
ganh tị với chồng, và hờn mấy đứa con không công bình với mẹ… đó mà!
Nhưng rồi tôi chợt mắc tức cười cho tánh
trẻ con của mình! Bỗng chuông từng chập reo vang:
- Helo, helo... Xin lỗi, vị nào bên kia đầu dây
vậy?
Giọng rôn rổn của bà bạn thân cười hí hí:
-
Nầy bà nghe nhạc CD mới mua chưa?
Trả lời bạn ở cách nhà tôi mấy làng, mà
tuần trước hai đứa cùng ghé qua chợ mỗi đứa mua một CD tân nhạc giống nhau:
-
Đang nghe, chị gọi có chuyện gì khác không, hay chỉ vậy thôi?
-
Không, chỉ vậy thôi nghe tiếp đi bồ tèo... thôi “bye, bye...”
Vừa mắc điện thoại lên tôi vừa lầm bầm một
mình: “Đồ mắc toi, thiệt là vô duyên không tiền thưởng, vậy mà cũng gọi người
ta...”
Rồi giọng hát trầm ấm ngân dài như nức nở,
nghẹn ngào của ca sĩ tài danh, qua bài: “Một
Chút Quà cho Quê Hương” của ca nhạc sĩ Việt Dũng.
“Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy
Gởi về cho chị dăm ba xấp vải
Chị may áo cưới hay chị may áo tang
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng
Con gởi về cho cha một manh áo trắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình
Em gởi về cho anh một cây bút máy
Anh vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh
Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh
Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn
Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa
Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương
Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương
Em bán cho đời tìm đường vượt biên
Con gởi về cho cha vài viên thuốc ngủ
Cha chôn cuộc đời trong tử tù chung thân
Gởi về Việt Nam khúc hát ân cần
Mơ ước yên lành...
trong giấc ngủ.... da.... vàng....”
Nhìn qua song cửa buổi chiều đông tắt nắng,
tuyết rơi mấy hôm trước còn phủ trắng trên sân cỏ trước sau nhà. Ngoài kia, bay
lên đáp xuống bầy chim có bộ lông đen mướt, mỏ và chân màu vàng nghệ, chúng đang
nhảy nhót ăn tuyết và tìm côn trùng... Và các cây cối trơ cành để đón mùa đông
giá rét từ tiết trời cuối thu...
Bản nhạc “Một Chút Quà Cho Quê Hương” trong CD đã hát xong, tôi cảm thấy
lạnh cả người! Tâm hồn tôi thương cảm xác xao, và nước mắt trào dâng... Trong
khi phu quân tôi cũng ngồi đó thẫn thờ, hồn rưng rưng! Rồi anh thở dài đứng lên
nhìn ra cửa sổ, như cố giấu lệ ướt mi! Từ đó dư âm bản nhạc “Một Chút Quà Cho Quê Hương” của Việt
Dũng luôn cuốn xoáy tâm hồn khiến tôi nghĩ ngợi, xao xuyến, và thương cảm dâng
tràn… Bản nhạc đã đưa tôi trở lại quê nhà đang trầm thống khổ đau, theo từng sự
kiện nghe, thấy và tôi đã chứng kiến... Tôi cũng nghĩ rằng ca khúc “Một Chút Quà Cho Quê Hương” đã đi vào
lòng dân Việt tỵ nạn Cộng sản khắp mọi nơi trên thế giới... Khó ai tránh khỏi
nỗi xao xuyến, nghĩ ngợi, thương tâm khi mới nghe lần đầu... và muốn nghe thêm
và nghe thêm nữa. Rồi tôi tự hỏi: “Không biết nhạc sĩ Việt Dũng là ai, mà viết
ra lời và nhạc khiến cho đại đa số người nghe rất mẫn cảm, rất dễ xúc động...
Điệu nhạc lời ca ai oán, nức nở, đoạn trường... đã đi vào lòng mọi người như
thế nầy! Thật là một ca khúc quá tuyệt vời, một nhạc sĩ tài hoa…”
Thời gian cứ lặng lẽ trôi mang theo buồn
vui của thế nhân! Có hôm lật tờ báo cũ của chị bạn cho, xem đến mục chia buồn
tôi mới biết nhạc sĩ Việt Dũng là con của bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy. Chợt nhớ lại
mấy mươi năm trước mình có làm ở phòng mạch ông! Và tôi tự hỏi rằng: “Không
biết có phải Việt Dũng là đứa bé trai thuở đó đi bằng cây tó không?”
Sau nầy xem DVD, đọc và xem hình ảnh trên
báo chí trong những lần trình diễn văn nghệ chống Cộng khắp Âu, Á, Mỹ... Thì
tôi nhận ra, dung nhan người nhạc sĩ tài hoa Việt Dũng đúng là cậu bé dễ thương
mà ngày xưa tôi có dịp gặp nơi phòng mạch cha cậu. Nay mặc dù Việt Dũng không còn
là một cậu bé nữa! Bây giờ anh là một thanh niên cao lớn, khỏe mạnh, già dặn
theo gió bụi thời gian, mà nét mặt điềm đạm, phúc hậu, nụ cười hiền lành vẫn
tiềm tàng trên khuôn mặt rạng rỡ trong sáng của anh.
Tôi càng ngưỡng mộ và quý mến Việt Dũng hơn
khi biết những việc cá nhân anh âm thầm làm chung cho đại cuộc.
Anh đã đấu tranh đòi hỏi “nhân quyền” cho Việt Nam. Có lần tôi
nghe Việt Dũng phát biểu trên khán đài lộ thiên, trong những ngày cộng đồng
Việt Nam hải ngoại, biểu tình phản đối Trần Trường treo cờ giặc... ở Nam
California. Rồi theo dõi trong những đêm, những buổi trình diễn văn nghệ, ca
nhạc, đại nhạc hội điều khiển chương trình… MC Việt Dũng cũng nói tiếu, cũng
nói đùa... Nhưng anh chừng mực không sa đà, không nói trây, nói tục, nói dai,
nói dài, nói dẻo... như những MC khác. Người đời thường bảo: “Rượu nhạt uống lắm cũng say/ Người khôn nói
lắm dẫu hay cũng nhàm” làm MC mà cứ nói hoài, nói riết... khiến cho khán
thính giả nhàm chán, chẳng muốn xem nghe nữa.
Tôi không quên và tôi vẫn nhớ ngày đó trước
chừng mươi bữa, con gái tôi sẽ thành hôn vào ngày dương lịch 5 tháng 6 năm
1999. Tối hôm đó xem DVD của Asia, nghe Việt Dũng giới thiệu bài hát trước khi
ca sĩ trình diễn. Tôi không còn nhớ ở trong DVD nào, trong lời giới thiệu anh
trầm giọng với bốn chữ cuối cùng “bên
khóm sầu đông”. Bỗng dưng cảm nhận được, tôi viết bài thơ trước ngày con
gái tôi lấy chồng:
NGÀY CON THEO CHỒNG
Ngày con cất bước theo chồng
Lệ nhòa mi mắt mà
lòng mẹ vui
Họ hàng chúc tụng nói cười
Từ đây con sống
nhà người phận dâu
Nhỏ một tiếng,
bớt một câu
Giữ gìn lễ phép
cúi đầu dạ thưa
Đôi khi sáng nắng
chiều mưa
Ngọt lời mềm mỏng
cho vừa lòng nhau
Tình sông dài,
nghĩa vực sâu
Lửa hương nồng đượm
bền lâu suốt đời
Thương thì bỏ chín làm mười
Tươi son bền sắt
tuyệt vời yêu nhau
Mùa Xuân hôn phối
đón chào
Gấm vàng áo cưới
rực màu long lanh
Trên đầu đội chiếc khăn vành
Mang hia long
phụng thêu cành hạt châu
Nhà trai trình lễ
rước dâu
Bàn thờ lạy tạ,
lễ đầu bà ông
Lạy cha mẹ, mẹ
cha chồng
Hai bên dòng họ
người đông đứng đầy
Một xá cảm tạ bà mai
"...Giã từ
em nhé, chị nay theo chồng
Mẹ cha thay chị em trông..."
Nghẹn ngào lời nói, rưng dòng lệ sa
Rước dâu kìa chiếc xe hoa
Họ hàng chúc phước, tặng quà vu quy
Bồi hồi nhìn bước con đi
Ngậm ngùi trước phút chia ly não lòng
Nuôi con mấy chục năm ròng
Lạnh căm mẹ chịu, cay nồng mẹ cam
Quản chi gió Bắc, mưa Nam
Túng nghèo, đói rách, đổi dần ấm no
Bao năm mẹ đã chăm lo
Lúc con trong bụng đắn đo đủ điều
Ăn lựa, mặc đẹp, vui nhiều
Giữ gìn ý tứ, lắm điều cữ kiêng
Không giận dữ, không buồn phiền
Chào đời con sẽ ngoan hiền thông minh
Trong ngoài, mẹ chỉ một mình
Bởi cha là kẻ chiến binh xa nhà
Đến ngày nở nhụy khai hoa
Nay đau mai ốm mẹ đà gian nan
Đến khi mạch sữa khô khan
Con ăn bột khuấy, rồi ăn cơm nhồi
Ngày con dợm đứng chớm ngồi
Kêu ba gọi mẹ, biết đòi ngoài trong
Rồi
con vào lớp vỡ lòng
Chiến tranh dồn dập, hết mong giặc tàn
Mưu sinh gặp bước gian nan
Vì con dù phải nguy nàn chẳng nao
“Bảy Mươi Lăm” giặc tràn
vào
Cha đi cải tạo biết bao giờ về?
Miền Nam bao nỗi ê chề!
Làm con “lính ngụy” trăm bề
tối tăm
Cuộc đời nhiều nỗi thăng trầm
Vượt biển là việc khó khăn xa vời
Trời cao không phụ lòng người...
Ngày
nay con được vào đời thành thân
Ba mươi năm! Tưởng rất gần!
Thương con quên mất bao lần lao đao
Thời gian thắm thoát qua mau
Giờ đây mới biết trắng phau mái đầu
Tưng bừng đốt pháo đón dâu
Mà sao mẹ thấy buồn nao cõi lòng
Trong rào bên “khóm sầu đông”
Có con chim nhỏ sổ lồng bay xa...
Về sau, đôi lần tôi điện đàm với Việt Dũng,
hỏi thăm dùm người bạn, muốn làm một cái CD tân nhạc. Mùa xuân năm đó, tôi có
duyên gặp lại Việt Dũng trong buổi tiệc Tân niên, của “Nguyệt San KBC/ Hải Ngoại” vào
tháng 12, năm 2009. Bữa tiệc tổ
chức tại nhà hàng Diamond ở Graden Grove California. Việt Dũng ghé qua bàn sách
có trưng bày sách của nhiều tác giả, của tôi. Và kế bên là bàn trưng bày phù
hiệu của các quân binh chủng Việt Nam Cộng Hòa.
Việt Dũng chọn hai quyển sách, và hai CD
tân nhạc phổ thơ của nhạc sĩ Thông Đạt-Văn Giảng.
-
Chị còn CD nào của nhạc sĩ Văn Giảng không? Hên quá, hôm nay mới tìm
được CD nhạc nầy, chúng tôi rất cần để tương lai làm DVD nhạc chủ đề của ông...
Bao nhiêu tiền cả hai cuốn sách và CD đây chị?
-
Năm mươi đồng (50$).
Anh mau mắn lấy bóp đưa cho tôi tờ giấy bạc
năm mươi đô la. Tôi cầm tiền phân vân rồi đưa lại, mỉm cười bảo:
- Trả lại Việt Dũng, tiền giả không dùng
được!
Anh ta mở to mắt tròn xoe ngạc nhiên nhìn?
Tôi cười tiếp:
-
Nói giỡn, tặng Việt Dũng đó...
Việt Dũng cười:
-
Chị thiệt làm em giật mình! Nhưng không, không được.... Vậy thì để em
phụ với chị tiền in ấn...
Anh ta để ba chục (30$) đồng trên bàn, rồi
quày quả đi vào trong. Việt Dũng tôi gặp buổi chiều nay không mặc veston, mặt
mày không trang điểm như trong những DVD anh làm MC. Nhưng “dung nhan mùa hạ” của anh rất dễ nhìn. Việt Dũng mặc áo màu tơ tằm
ngả vàng ngắn tay để trong thắt lưng, quần màu cỏ úa... Cách ăn mặc bình dân,
nhưng không kém phần lịch sự và trang nhã.
Nghĩ lại, từ khi ra hải ngoại đến bây giờ,
có ba (3) bản nhạc nghe xong khiến tôi xúc động rơi lệ! Đó là bản nhạc: “Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa” từ ngày Việt
cộng cưỡng chiếm miền Nam, cho đến ra xứ tự do tôi mới được nghe lại. “Một Người Mang Tên Quốc” và bản nhạc “Một Chút Quà Cho Quê Hương” của ca nhạc
sĩ Việt Dũng.
Nơi cố thổ, hay ở ngoại quốc, khắp mọi nơi
có người Việt Nam tị nạn Cộng sản. Cho dù ai có khó tánh đến đâu cũng phải công
nhận rằng Việt Dũng là một ca nhạc sĩ tài hoa, một MC chiếm được cảm tình hầu
hết khán thính giả Việt Nam trên thế giới. Gia đình Việt Dũng hãnh diện có anh!
Người Việt không Cộng sản rất hãnh diện, vì ngoài là một nhạc sĩ tài hoa nổi
tiếng, Việt Dũng còn là một chiến sĩ tận hiến cho cộng đồng và quê hương suốt
39 năm qua, anh đã tranh đấu không ngừng đòi “nhân quyền” cho Việt Nam...
Theo thiển nghĩ và sự hiểu biết hạn hẹp cá
nhân tôi là: Tất cả mọi người dân của nước nào cũng vậy, đều có quyền yêu quê
hương đất nước của mình. Yêu nước không phân biệt giàu nghèo, quân, dân, già,
trẻ, nam, nữ hay địa vị… trong xã hội. Yêu nước ở nhiều khía cạnh khác nhau, và
lòng yêu nước đó thể hiện qua tâm tư, việc làm cùng hành động cũng khác nhau ở
mỗi hoàn cảnh của mỗi người. Có người sinh hoạt chung trong hội đoàn, đoàn
thể... có người hành động lặng lẽ âm thầm riêng rẽ với khả năng của mình…
Sau ngày 30, tháng 4 năm 1975, miền Nam ta
đã rơi vào tay Cộng sản. Nước Việt Nam hoàn toàn bị Việt Cộng thống trị. Chúng
đày đọa và bần cùng hóa người dân Việt… Chúng còn dâng bán lãnh thổ, lãnh hải
Việt Nam cho Tàu Cộng để kiếm lợi riêng. Bọn đảng viên Việt cộng và gia đình có
độc quyền làm giàu, bất chấp thủ đoạn và xương máu của dân… Và còn hàng hàng
lớp lớp thảm trạng đau thương tang tóc... xảy ra từng phút, từng giờ trên đất
nước Việt Nam. Cho nên bất cứ một công dân Việt Nam nào cũng có quyền đấu tranh
chống lại bọn ngoại xâm, chống lại Cộng sản, Việt Cộng… và đòi “nhân quyền” cho dân Việt, giành lại lá
Quốc kỳ “Vàng ba sọc đỏ” phấp phới
bay trong bầu trời nước Việt.
Khắp mọi nơi trên thế giới, nơi nào có
người Việt là có cờ Vàng ba sọc đỏ. Bởi lá cờ “Vàng ba sọc đỏ” là biểu tượng cho lý tưởng tự do dân chủ của người
Việt Nam không Cộng sản. Cho nên bất cứ người Việt Nam nào, không phân biệt
dân, quân, cán, chánh, địa vị, giàu, nghèo, sang, hèn... Chân chính nghiêng
mình dưới lá cờ “vàng ba sọc đỏ” là
những người được hưởng tất cả những quyền lợi gì của người dân Việt Nam trong
chánh thể Cộng Hòa được hưởng…
Trên thế giới có biết bao nhiêu người Việt
Nam ngưỡng phục Việt Dủng. Riêng trong tôi ngoài ngưỡng phục, Việt Dũng đúng là
một thanh niên Việt Nam Cộng Hòa có tài và có hạnh.
NGUYỆN
CẦU
Thắt lòng bỏ nước ra đi
Ngại chi sóng gió
hiểm nguy dặm đường
“Một Chút Quà Cho Quê Hương”
Nghe sao nức nở đoạn trường Dũng ơi!
Tang thương sau
cuộc đổi đời...
Khổ đau phủ kín phương trời Việt Nam
Nay về nước Chúa
bình an...
Xuân luôn ngự cõi Thiên Đàng trên cao
Anh nêu gương tốt
ngàn sau...
Buồn trong nỗi
nhớ, nghẹn ngào tiếc thương...
Tình dân tộc,
nghĩa quê hương...
Thời gian dài dẳng
kiên cường đấu tranh...
Bao người ngưỡng phục lòng thành
Nguyện cầu Việt
Dũng ơn lành Chúa ban...”
Trích trong tuyển tập “Bóng Thời Gian” phát hành năm 2021
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email:
dtdbuon@hotmail.com
No comments:
Post a Comment