Tuesday, December 9, 2014

TUỔI THƠ...XA RỒI

____________



               
Mặc Nhân
Mùa Phật Đản năm xưa tôi vừa lên tám được theo bà nội, ba mẹ, các anh đi lễ Phật ở Núi Bà Đen, Tây Ninh. Vốn là cư dân vùng đồng bằng nên khi được đi hành hương ở vùng núi, tôi vô cùng háo hức. Trông chờ ngày lên đường tôi đã tưởng tượng và hình dung biết bao điều lý thú về núi mà nơi đó có cây cao bóng cả, kỳ hoa dị thảo, suối chảy thông reo, biết đâu có cả tiên ông đánh cờ buổi sáng, tiên nữ nhảy múa dưới trăng giữa tiếng chim kêu hạc múa… Cho nên chưa đi mà dường như tôi đã biết quá nhiều về núi.

Hôm ấy cả nhà dậy sớm lên một chiếc xe đò cọc cạch, thùng xe bằng cây sơn màu đỏ choét, hai cái đèn pha giống như hai cái gàu tát nước, một cái kèn mà mỗi lần bóp lên phát ra một âm thanh toe toét khó nghe. Theo sự sắp xếp, tôi được ngồi giữa anh tôi và bác tài xế ở hàng đầu. Mọi người đã lên xe. Giờ khởi hành bắt đầu. Bác tài xế ra hiệu, chú lơ dùng ma-ni-quên quay máy. Chú quay cật lực, máy mới chịu nổ. Cả chiếc xe rung lên, khói phun mịt trời. Để khởi hành, tôi thấy bác tài có những thao tác vừa tay vừa chân lộp cộp lạc cạc, chiếc xe mới chịu từ từ tiến lên tuy vậy cũng phải cà giựt cà giựt mấy cái.
Tôi có dịp nhìn bác tài rõ ràng hơn. Với bộ râu trái ấu trên vẻ mặt phong trần, một cái nón kết nhớp nhúa trên đầu, một khăn rằn quấn quanh cổ, bác tài quả là tiêu biểu chuẩn mực nhứt cho các bác tài thời bấy giờ.
Xe chạy một thôi đường phải đậu lại để chờ chuyến phà qua sông. Xe đợi khá lâu. Trên xe giờ đây chỉ còn duy nhất một hành khách là tôi, tất cả đều phải xuống xe đi bộ. Khi có tiếng còi hoét hoét của một công nhân cầm cờ đỏ, cái cổng tre sơn trắng đỏ được giở lên, xe xuống cầu. Xe lại phải đậu trên một cái “thớt” để một số mạch-lô đẩy cái thớt cho xe quay đít lại hướng về chiếc phà. Xe xuống phà.
Qua sông, xe chạy qua một thành phố với những dãy phố ngói san sát, hai bên đường tráng nhựa êm ru có những hàng cây cao cho bóng mát. Người ta qua lại đông đảo dập dìu, xe đạp cốc keng, xe kéo ê ép, có cả những cỗ xe ngựa lốc cốc… Cái kèn xe có nhiều cơ hội phát huy tác dụng, nhưng có điều tiếng toe toét, tóet toe vô duyên của nó làm cho tôi buồn cười. Cặp mắt đăm đăm nhìn về phía trước, bác tài phải trổ hết tài năng của mình để giữ cho cỗ xe được an toàn. Bác ghì chặt vào “tay bánh” giống như cái vòng xe tôi đánh chơi nhưng nhỏ hơn, không ngừng lắc qua lắc lại. Qua ngã tư ngã ba, hoặc có ai băng qua lộ, hay một xe nào đó vượt qua, bác luôn miệng càu nhàu và lắm lúc chửi đổng một tiếng.
Dù sao tôi cũng thích ngồi gần bác tài để được nhìn sự vật rõ hơn. Hai bên đường hầu hết đều là đồng ruộng mênh mông, có nơi ruộng vừa mới cấy, có nơi lúa đã trổ đòng đòng. Một bầu trời bao la xanh mát, những cánh cò loang loáng bay lên đáp xuống. Dọc theo con đường thiên lý chạy dài không ngớt trước mắt tôi là những đường dây thép lượn lên lượn xuống. Cảnh vật mới lạ, gió đồng mát rượi khiến cho tôi vui sướng phấn chấn vô cùng.
Tôi nhìn ra sau thấy nội tôi bỏm bẻm nhai trầu, dường như cũng hả hê với cái hả hê của tôi lắm. Ba mẹ tôi cũng vui lây, thỉnh thoảng chỉ cho các anh tôi tên những địa danh của vùng đi qua cũng như tên những cây cầu mà các anh tôi chưa từng biết.
Xe chạy gần đến một cây cầu mà từ xa đã thấy đồ sộ, lừng lững một giàn sắt đen sì cao nghều nghệu, dài thăm thẳm. Đến nơi xe bị chặn lại bởi một cổng sơn đỏ. Người gác cổng cầm cờ đỏ ra dấu cho tất cả xe dừng lại. Bác tài nói trỏ ra sau:
- Chết cha kẹt xe lửa rồi.
Tôi nghe từ xa tiếng rầm rầm lần lần lớn lên đinh tai điếc óc, từ từ hiện ra từ trong hầm cầu một cỗ xe đen thù lù, phun khói đen ngòm chạy trên hai đường sắt… phát ra một thứ hòa âm hỗn loạn chát chúa của đá xanh và sắt thép. Xe lửa chạy qua, cổng giở lên, xe chúng tôi qua cầu. Tôi lẩm bẩm đếm một, hai, ba… bốn… năm… và khi xe qua khỏi cầu là hai trăm mười sáu. Cây cầu Bến Lức theo luật dâu bể đã không còn nhưng trong ký ức tôi nó vẫn còn hiện diện mỗi khi tôi nhớ nó.
Chúng tôi lại phải qua một thành phố nữa, lần nầy lớn hơn, nguy nga hơn, nhà cao cửa rộng, người qua kẻ lại tấp nập, xe cộ chật đường… huyên náo, nhộn nhịp… Ra khỏi thành phố nầy, xe lại chạy giữa những cánh đồng dường như cao ráo hơn, khô cạn hơn và ở đây tôi thấy nhiều bò hơn là trâu như ở xứ tôi. Lại nữa nhiều lúc xe phải lên dốc rồi xuống dốc. Chiếc xe cà khổ của chúng tôi có lẽ phải ráng sức lắm nên máy nổ ầm ầm, khói bốc đen ngòm … ì ạch, ì ạch … Nhưng mỗi khi xe xuống dốc, ruột tôi hơi thót lên một chút. Đến một nơi có cái cua khá vắng vẻ, bác tài cho xe dừng lại bên đường rồi lớn tiếng vọng ra sau:
- Bà con xuống xe “xả xúp-páp”, tôi đổ nước xe luôn.
Thì ra người ta thì xả nước còn xe thì vô nước.
Xe lại chạy, bác tài lại nói:
- Qua cái cua nầy mình thấy núi Bà Đen rồi.
Quả thật trước mắt tôi một ngọn núi thực sự đã hiện ra. Tròn như cái tô lật úp, xanh lam trên nền trời xanh lơ, trên đỉnh có những làn khói bạc lơ lửng bốc lên. Núi đây rồi, núi Bà Đen đây rồi. Lần đầu tiên tôi thấy núi, tròn trịa, không nhọn hoắt, không lồi lõm, hiền hòa, êm ả… Tôi nôn nao để được leo núi.
Không có nhiệm vụ gì trong đoàn như dẫn nội, xách giỏ trầu cho nội nên tôi là người leo lên gộp đá đầu tiên. Sương đêm còn đọng, nền đá lạnh và trơn trợt. Như một con sóc tôi thích thú nhảy nhót, leo trèo, hết nhìn lên ngọn cây cao chớn chở lại nhìn xuống vực sâu hun hút. Êm đềm cái êm đềm của thiên thai chăng? Thanh lặng của bồng lai chăng? Tâm hồn tôi thư thái. Trí óc lâng lâng. Tôi tung tăng chạy nhảy như con chim sáo vẫn biết rằng từ nội, ba mẹ, các anh đều dõi mắt trông chừng tôi.
Tôi chợt nhìn thấy một gốc cây đồ sộ, không biết mấy vòng tay người lớn ôm cho giáp. Tôi ngước nhìn lên thân cây cao vút theo một đường thẳng rất chuẩn, lại không có tàn nhánh bâng quơ. Chợt một vật gì từ trên cao bay loáng thoáng, nhẹ nhàng và đáp xuống nền đá một cách duyên dáng. Tôi cúi xuống nhận thấy khá nhiều rơi rớt đây đó và lượm lên một chiếc. Một vật gì đó có một cái hột tương tự như củ nén đeo theo hai cánh mong manh hình vòng cung. Tôi tung lên cao, vật nầy bay vòng vòng, hai cánh xoay tít trông rất vui mắt, từ từ hạ xuống. Thế là tôi lượm lên bỏ vào túi để thỉnh thoảng quăng lên theo chiều gió. Hầu hết chúng đều không bay xa, lẩn quẩn rồi lại về với tôi.
Thế là tôi có một trò chơi để quên cái nhọc mệt leo núi. Trong khi đó nội tôi luôn miệng niệm Nam mô Quan thế âm Bồ tát với một giọng thành kính và đôi mắt từ bi luôn nhìn theo tôi đang chơi đùa với một vật mà tôi không hề biết tên.
Mải mê với trò chơi mà ở quê tôi không có, tôi không để ý đến một nhân vật nhỏ bé mặc một bộ đồ đầm bông đủ màu sắc, khuôn mặt bầu bĩnh, tóc hớt bôm bê, đôi mắt lồ lộ đen huyền, đôi chân nhỏ xíu trắng tươi trong đôi xăng đan màu đỏ… từ lúc nào đang chăm chú nhìn theo trò chơi của tôi một cách thích thú. Bị lôi cuốn, cô bé vừa chạy theo vừa đưa tay để chụp lấy cái vật mà tôi vừa tung lên đang vòng vo rơi xuống. Cô bé không với được vật mình muốn bắt lấy, đang từ từ bay ra khỏi tầm tay, sắp rơi ra ngoài triền núi. Hụt hững, cô bé tròn xoe đôi mắt vẻ tiếc rẻ và nhìn tôi nũng nịu như hờn dỗi, như muốn bắt đền. Chợt có tiếng gọi:
- Mai, con coi chừng.
Thì ra cũng có một đoàn hành hương cùng lên núi với chúng tôi mà mải mê chơi, tôi không để ý. Cô bé Mai, à thế là bé Mai rồi. Bé Mai lại nhìn tôi với đôi mắt tròn vo hột nhãn, nửa như ra lịnh nửa như cầu khẩn để tôi lại tung lên cái vật kỳ lạ nầy để bé Mai chụp lấy. Bé Mai có biết đâu rằng thoạt đầu nhìn bé Mai tôi đã bị thu hút bởi vẻ mặt ngây thơ, đôi má bầu bĩnh, cặp mắt tròn xoe đen lay láy, nhứt là vẻ phụng phịu của một người con gái… mà tôi thì không có chị kể cả em gái. Cho nên tôi hạnh phúc biết bao khi nhìn bé Mai nũng nịu nhìn tôi van lơn.
Tôi lấy ra một cái tung lên, nhưng không quá cao không quá xa để bé Mai chụp được. Lòng hào hiệp của tôi được tưởng thưởng, cô bé nắm được đồ chơi. Dường như bé Mai biết được là trong sự thành công của mình có một chút xíu gì đó ẩn tình của tôi. Bé nhìn tôi với một nụ cười rạng rỡ trong đôi môi nhỏ nhắn rồi đột nhiên chạy lại nắm tay tôi ra dấu cho tôi lại tung lên lần nữa để bé lại chụp.
Và tôi cũng không biết từ khi nào, bé Mai và tôi đã tay trong tay tung tăng chạy nhảy không rời nhau nửa bước. Gia đình chúng tôi từ nội đến ba, mẹ… và bên kia gia đình của bé Mai nhìn chúng tôi quấn quít bên nhau, tự dưng có một sự đồng cảm nào đó nên đều nhìn chúng tôi một cách trìu mến. Mối tình cảm tương quan bất chợt nầy đã làm vơi đi sự mệt nhọc của hai đoàn hành hương nên tôi không nghe tiếng niệm Phật của nội nữa mà chỉ thấy nội nhìn sự quyến luyến của chúng tôi mà luôn nở một nụ cười với cái miệng hóm hém dễ thương của nội. Và cũng nhờ vậy mà chúng tôi lên đến Chùa Trung hồi nào không biết.
Chúng tôi ra sau chùa nơi có những hồ lấy nước suối từ những ống tre dẫn từ thượng nguồn để rửa ráy sạch sẽ, chuẩn bị hoa quả nhang đèn lên lễ Phật. Theo sự sắp xếp của hai gia đình, hai chúng tôi quỳ đàng trước và cạnh bên nhau. Nhìn lên tượng Phật uy nghi, nghe tiếng mõ vang vang, tiếng nam mô đều đều… tất cả tạo nên một bầu không khí huyền diệu khiến cho tôi chưa có một ý niệm gì về tâm linh nhưng cũng thấy lòng xao xuyến. Tôi hé nhìn những người lớn, tất cả đều có một tư thế, một phong cách, một ánh mắt đầy niềm tin. Tôi lại nhìn Bé Mai, Bé Mai cũng vậy, hai tay chắp trước ngực, đôi mắt tròn xoe đăm đăm nhìn lên tượng Phật, thân bất động. Trong khi đó chưa chi tôi đã cảm thấy bất an, mỏi tay mỏi chân.
Theo từng hồi chuông, mọi người thì thụp lạy, miệng lâm râm niệm Phật hoặc cầu nguyện một điều gì. Tôi có biết gì cho cam, như cái máy mọi người lạy, mình lạy, mọi người lép nhép mình cũng vậy. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi nhìn sang bé Mai thấy bé lâm râm một câu gì đó dường như có ý nghĩa, đôi mắt sáng rực nhìn vào Đức Quan Âm. Lễ xong tôi là người đầu tiên bước ra khỏi chiếu trong khi mọi người kể cả bé Mai còn lễ thêm ba xá.
Bé Mai lại nắm tay tôi ra sau chùa nơi lấy nước từ trên suối. Bé Mai đưa tay hứng những dòng nước trong vắt từ ống tre tóe vào tôi và nhìn tôi cười còn ra hiệu cho tôi làm như vậy với bé Mai. Tôi tham gia vào trò chơi, nhưng có lẽ nhiệt tình hơn. Tôi vốc một vốc nước từ trong hồ đầy tạt vào mặt bé Mai. Nước khá nhiều đủ để vào mắt vào mũi khiến cho bé Mai sặc sụa chạy né tránh vấp vào một gộp đá ngã sóng soài trên nền đá cứng.
Tôi hốt hoảng chạy lại đỡ Bé Mai lên. Đầu bé Mai nằm trong tay tôi, mắt đỏ hoe, trong mũi nước còn đọng khiến cho Bé Mai sặc lên mấy lần, tóc tai, bâu áo ướt sũng. Bất giác tôi bật khóc. Nước mắt ràn rụa. Không biết tôi khóc vì sợ ba mẹ mắng hay ba mẹ bé Mai giận hay tôi sợ bé Mai đau. Rồi như tự trách mình sao lại nông nổi thay vì che chở cho bé lại làm cho bé đau. Bé Mai nhìn tôi khóc, đưa tay vuốt lại tóc, dụi mắt nhoẻn miệng cười rồi lại lấy tay chùi nước mắt cho tôi. Bé Mai nhìn vào tôi hỏi:
- Bộ thương lắm hả?
Tôi đáp không suy nghĩ:
- Ừa.
Chớ không lẽ trong tình huống nầy mình đáp là không. Bé Mai lại hỏi:
- Sao thương?
Tôi chịu, không trả lời được. Nhưng may quá tôi nghĩ ra một câu:
- Tại làm bậy.
Bé Mai chưa tha, trời ơi sao con gái lại khôn hơn con trai nhiều quá vậy, lại bảo: - Nội bảo làm lỗi thì phải sám hối mới hết tội.
- Sám hối là làm sao?
Thế là bé Mai dẫn tôi trở vào điện. Hai chúng tôi quỳ trước đấng Quan Thế Âm, bé Mai lại nhỏ nhẹ bảo tôi:
- Sám hối đi.
Tôi lại ngơ ngác:
- Nói gì?
Bé Mai lại dạy:
- Tôi không tát nước vào Mai nữa.
Tôi lặp lại câu của bé Mai trước Đức Bồ Tát, không biết người có chấp nhận lời sám hối chân thành của tôi không, nhưng tôi thấy lòng tôi thư thái vô cùng.
Chúng tôi lại tay trong tay ra sân chùa, thi nhau tung những vật gì quay tròn theo gió để cùng nhau chạy theo chụp lấy. Lần nầy khi tung lên tôi cố tình nhẹ tay, vừa tầm với của bé Mai vì vậy mỗi lần chụp được, bé nhìn tôi với ánh mắt ngây thơ và một nụ cười biết ơn. Riêng tôi cảm thấy một niềm vui khó tả. Cũng có chiếc bay lên gặp cơn gió mạnh chao đi ra khỏi lan can sân chùa rơi xuống sâu thẳm của triền núi để lại cho chúng tôi một tiếc rẻ của hạnh phúc tan đi.
Sau khi lễ xong ở Chùa Hang trời đã xế chiều, cả hai gia đình đồng xuống núi ra về. Vẫn hai chúng tôi, tay trong tay dung dăng dung dẻ tiến lên trước vui sướng nghe chim ca hót đâu đây hòa điệu với tiếng ve sầu vào hạ, gió núi vi vu mát rượi, chúng tôi nhảy nhót như đôi chim non nên chẳng mấy chốc đã đến cây cổ thụ nơi mà chúng tôi nhặt những vật có cánh quay tròn, đã tạo cho chúng tôi một niềm vui sướng và một thứ tình cảm mơ hồ mà tôi không rõ lắm.
Chúng tôi ngồi lại dưới gốc cây. Tôi hỏi bé Mai:
- Nhà ở đâu?
Bé Mai đáp:
- Ở trên Thủ.
Bé Mai lại hỏi:
- Còn nhà ở đâu?
- Ở tuốt dưới Bến Tre.
Tôi không biết Thủ ở đâu, bé Mai chắc cũng không biết Bến Tre là ở đâu. Một phút im lặng. Chợt bé Mai hỏi tôi:
- Chừng nào mình gặp lại nữa?
Trời ơi, câu hỏi bất ngờ của bé Mai khiến tôi trở về thực tế. Tôi có nghĩ gì đâu, chẳng qua đi chùa gặp nhau, nô đùa với nhau rồi nhà ai nấy về. Thế là xong. Rất đơn giản. Nhưng khi câu hỏi của Mai đưa ra, tôi cố tìm câu trả lời mãi không ra, kịp khi một ý nghĩ thoáng qua trong trí óc của tôi để có thể bật thành tiếng thì nước mắt tôi đã tuôn tràn ngăn không cho tôi nói thành lời. Câu đó là: “Mình làm sao gặp được nữa”.
Tôi nghẹn ngào nhìn bé Mai đang ngước mắt nhìn tôi trông chờ câu trả lời không bao giờ có. Tôi nhớ lại mới sáng nay, khuôn mặt bầu bĩnh và đôi mắt ngây thơ của bé Mai nhìn tôi như cầu khẩn để được làm quen, giây phút tôi tạt nước làm bé Mai té xuống nền đá để bé Mai gối đầu trên tay tôi đưa tay chùi nước mắt cho tôi với nụ cười tha thứ, giây phút tôi quỳ bên cạnh Bé Mai để sám hối trước Đức Quan Âm… và tôi đã chẳng nói là tôi thương bé Mai sao. Vậy có phải là tôi đã thương Bé như đứa em gái mà tôi hằng mong ước không, hay là cái gì đó khác hơn… mà tôi không biết. Một cái gì đó kết hợp chúng tôi mơ hồ nhưng chân thành, sâu lắng, thánh thiện, gắn bó, buộc ràng…
Chừng nào mình gặp lại nữa. Tôi nghẹn ngào với câu hỏi nầy nên chỉ biết nhìn bé Mai. Bé Mai lại nhìn tôi với đôi mắt trông chờ một câu trả lời không bao giờ đến. Bé Mai đứng lên bước vài ba bước rồi quay lại bảo tôi: Mình lượm cái nầy đem về nhà đi. Chúng tôi gom lại những vật có cánh bay vòng tròn đã từng giúp cho chúng tôi quen nhau, rồi bé Mai lại chia ra:
- Cái nầy anh, cái nầy em, cái nầy anh….
Và vật cuối cùng lẽ ra thuộc về bé Mai nhưng bé Mai bảo:
- Cái nầy đem về Bến Tre đi….
Luôn luôn là bé Mai hướng dẫn tôi, chỉ bảo tôi… vậy rồi đây nếu tôi không có bé Mai….
Đã đến những gộp đá cuối cùng, nhìn từ trên đã thấy xe đậu, giây phút xa nhau không còn bao lâu, bé Mai kéo tôi lại và hôn trên trán tôi, cặp mắt buồn hiu, lí nhí mấy lời dường như là… về rồi buồn lắm…
Tôi thẫn thờ lên xe cố dõi mắt theo gia đình bé Mai. Hai xe cùng khởi hành một lượt. Xe bé Mai trước, xe tôi sau. Bé Mai ngồi phía sau nên tôi vẫn còn có thể nhìn thấy bé Mai thêm một đỗi đường. Tôi thấy bé Mai giơ tay ra dấu chào tạm biệt. Rồi bé Mai lại tung lên những vật nhỏ có cánh xoay vòng tròn, có cái đập vào kiếng xe tôi. Xe bé Mai chạy nhanh hơn nên lần lần bỏ xe tôi lại phía sau. Tôi cố nhìn theo, nhìn theo cho đến khi lớp bụi đường xóa mờ bóng dáng chiếc xe còn tôi màn nước mắt cũng đã xóa nhòa hình ảnh bé Mai.
Tôi lần vào túi lấy ra mấy vật nhỏ có cánh xoe xoe trong lòng bàn tay. Bác tài trông thấy bảo tôi:
- Biết trái gì hôn? Trái sao đó.
- Trái sao là gì ?
- Trái sao là trái của cây sao. Cây nó cao lớn lắm, mọc trong rừng trên núi, gỗ nó dùng làm nhà, đóng ghe tốt lắm. Trái của nó đó.
Tôi hỏi:
- Ừa mà sao nó có cánh chi vậy?
- Trong rừng có nhiều loại cây như vậy, trái nó có cánh để khi rụng xuống gió thổi bay đi xa để truyền giống mà.
Tôi mân mê trong tay mấy trái sao, nhìn vào hai cánh mong manh mà vừa mới đây đã kết hợp hai chúng tôi thành một đôi bạn chăng, hơn thế nữa một đôi anh em chăng, cũng chưa phải… mãi đến bây giờ tôi cũng chưa nhận định được mối tình cảm mà chỉ trong khoảnh khắc vẫn còn tồn đọng mãi trong tôi mặc dù đã xa, xa lắm rồi. Tôi không quên được hình ảnh Bé Mai ngồi trên xe, tay cầm mấy trái sao nhìn theo tôi rồi dần dần mất hút sau lớp bụi mù.

                                              ******
Bảy mươi năm sau câu chuyện trên, trong một gia đình nọ.....
- Nội ơi, Lễ Phật Đản nầy ba mẹ và các con đi lễ Phật ở núi Điện Bà Tây- Ninh. Ba mẹ sợ nội không khỏe nên không dám mời nội dẫn tụi con đi.
Nội hỏi lại:
- Phật Đản rồi à? Đi núi Điện Bà Tây Ninh hả?
- Dạ.
Ông nội dõng dạc nói:
- Vậy ông nội đi với tụi con chớ.
- Hoan hô nội. Ba mẹ bảo không sao đâu vì bây giờ đâu phải leo núi nữa mà mệt. Có cáp treo rồi.
Thế là gia đình sung sướng được cùng nội đi lễ Chùa. Đến chân núi, trong khi mọi người chuẩn bị mua vé đi dây cáp thì nội lại bảo:
- Không đi dây cáp, đi bộ, nội muốn leo núi.
Mọi người chưng hửng nhưng nội tiến bước lên phía trước như một vị tướng xung phong. Thế là tất cả phải bồng bế theo nội. Cháu trai một bên, cháu gái một bên thiếu điều khiêng nội lên. Nội còn cười bảo:
- Nội đi một mình mà… hồi đó…
Thế là ì ạch lắm chúng tôi mới lên được độ vài trăm mét. Bỗng nhiên nội đứng lại nhìn chăm chăm vào một cây cổ thụ. Nội tháo mắt kiếng ra ngồi xuống gốc cây như tìm một vật gì. Cuối cùng nội nhặt những vật gì đó cỡ hột đậu phọng có hai cánh mong manh cong vút. Nội lại quăng lên, mấy vật bay vòng vòng theo chiều gió nhẹ nhàng rơi xuống nền đá. Nội cười một mình. Cả đàn con, cháu nhìn nội ngơ ngác kịp khi nội dõng dạc ra lịnh:
- Thôi, xuống đi cáp treo.
Cả nhà lại một lần nữa tuân lịnh mà không biết rồi sẽ còn gì nữa chăng?
Chiều về, nội vẫn khỏe, nhưng có điều nội không nói gì. Nội lấy ra những vật nhỏ mà nội đã lượm ở chân núi, lau chùi sạch sẽ rồi lại để vào trong một cái hộp đem cất vào trong hộc tủ của nội. Công việc nội làm đối với chúng tôi quá tối nghĩa nhưng xem chừng nội làm rất cẩn trọng. Nội trở lại nằm trên ghế xích đu, mắt đăm chiêu. Tôi không thể chịu được nên đến bên nội, xoa xoa vào vai nội nịnh mấy câu:
- Nội đi chùa về có vui không?
- Vui.
- Vui sao hở nội?
- Thì được đi lễ Phật.
Tôi chưa khai thác được cái bí ẩn nầy nhưng không chịu thua. Tôi lại hỏi:
- Còn cái vụ mà mấy cái gì đó nội lượm về bỏ trong hộp đó nội?
Không thấy câu trả lời. Tôi thất vọng quá vì đây là cái tôi muốn hiểu. Kịp khi thấy vẻ tiu nghỉu của đứa cháu mà nội cưng nhứt nhà, nội bảo:
- Nhắc ghế lại ngồi cạnh nội, nội kể cho nghe.

Rồi Nội kể rằng: “Mùa Phật Đản năm xưa….............”./-                                                                           

1 comment:

Anonymous said...



Năm 55 lên Sài Gòn học tôi toàn dùng xe lửa. Đi xe hơi mau hơn nhưng nhiều lúc bị kẹt cầu ở Tân An hay Bến Lức vì đợi xe lửa có khi chờ cả tiếng đồng hồ. Nhứt là cấu Bến Lức, đường lên cầu rất dốc, từ trạm ngừng đón khách đến cầu vào khoảng 1km, xe lửa lúc đó cà xịch cà tang leo tới nữa dốc là hết hơi không lên nổi nữa nên đành sang số de qua khỏi trạm đón khách mới lấy trớn lên được dốc cầu, báo hại xe hai bên cầu phải đợi dài dài.
Cái trò liệng bông sao cho nó quay theo chiều gió mà được thêm một mối tình tuổi thơ. Trong mối tình nầy MN là người bị động, bị quay tròn như hai cánh của bông sao.
- còn cá vụ mà mấy cái gì dó Nội lượm về bỏ trong hộp đó Nội?
Mồ tổ cha mầy, lớn lên cháu sẽ biết? Hỏi làm gì?
BKG
,