Friday, December 26, 2014

TÌNH BAN HỌC, DUYÊN HÀNG XÓM

____________
 Mặc Nhân



               Cuối năm đó, giọng Thầy tôi đã khàn vì tuổi già, nhưng mắt thầy tôi vẫn còn sáng rực một niềm tin tưởng, một niềm hy vọng vào chúng tôi, để lưu truyền chữ nghĩa hay ít ra là ý tưởng thánh hiền mà chúng tôi đã thọ giáo.


Sức khỏe không cho phép thầy mỗi sáng lên lớp, tựa lưng vào gối ôm để giảng dạy chúng tôi nữa. Cái Tết thầy năm nay cũng là cái Tết thầy cuối cùng của chúng tôi, mà cũng là cái Tết Thầy dạy chữ Nho cuối cùng tại làng tôi. Một thúng nếp, một con gà mang đến nhà thầy, chúng tôi chắp tay trước ngực đứng nghe những lời giảng dạy cuối cùng của thầy, với một niềm kính yêu sâu đậm. Công thầy là ơn khó trả. Tình thầy là nghĩa không quên. Từ đây, trong làng tôi, không còn vang vang lên những âm thanh đọc bài bổng trầm của lũ trẻ ba vá miểng vùa, với tiếng gà gáy trưa trong các bụi tre bên bờ ruộng nữa.
Còn tình bạn học chúng tôi trong ba năm trời cũng đã hàn gắn chúng tôi năm trai và một gái thành một tiểu gia đình thương yêu đầm ấm, vui cái vui của nhau buồn cái buồn của nhau một phần là do tuổi trẻ chúng tôi vô tư, phần lớn là do thầy chúng tôi luôn giảng dạy chúng tôi những điều đạo đức. Ngày chúng tôi từ biệt thầy cũng là ngày chúng tôi giã từ nhau. Không ai bảo ai, chúng tôi nhìn cô bạn học gái là Thu Cúc mà cũng là cháu nội của thầy, nay đã là một thiếu nữ, ôm gốc cột nhìn chúng tôi ra về mà cặp mắt đỏ hoe. Chúng tôi cũng không hơn gì, nước mắt đoanh tròng, chân bước đi mà mặt còn ngoảnh lại, cho đến khi ngôi nhà của thầy chúng tôi mờ dần qua màn lệ và mất hút trong rặng vườn dừa.
Bạn tôi và tôi phân tán ra đi học ở các trường dạy Quốc ngữ trong làng, rồi lên tỉnh học ở bậc Trung học. Trong khi đó, Thu Cúc chỉ học hết Sơ đẳng tiểu học ở làng, rồi nghỉ học ở nhà phụ cha mẹ với công việc ruộng vườn đồng áng, dệt vải trồng bông… Gái thì giữ việc trong nhà, khi vào canh cửi khi ra thêu thùa... Thầy của chúng tôi cũng đã qua đời.
Phần tôi, học xong khoa Sư phạm, được bổ đi dạy tại một trường Tiểu học thuộc một tỉnh khá xa với tỉnh nhà. Một hôm về quê thăm nhà, ba má tôi bảo là trước đây, ông nội tôi và ông nội Thu Cúc vốn là bằng hữu thâm giao, đã có hẹn ước gá nghĩa vợ chồng cho tôi và Thu Cúc. Vâng lời ông nội nên ba mẹ tôi đã có cuộc trao đổi với ba má Thu Cúc, và đã chọn ngày tôi đi coi vợ. Thế là tôi phải xin phép trường để về quê theo ba má đi coi vợ.
Trước khi được phép đến nhà gái, gia đình chúng tôi được thông báo là tôi không được mặc đồ tây, có nghĩa là phải mặc áo dài khăn đóng. Giờ vào nhà gái cũng được ấn định là giờ Thìn giờ Dậu gì đó, may là có nói khi mặt trời lên cỡ hai tầm. Chúng tôi gồm ba người, ba má tôi và tôi, khăn gói lên đường, với trà rượu bánh trái tươm tất, không quên xem đi xét lại y phục của mình có làm vui lòng bên kia chưa.
Đến nơi chúng tôi phải đợi ngoài cổng khá lâu mới được ba má Thu Cúc áo dài khăn đóng chỉnh tề ra rước chúng tôi. Phân ngôi chủ khách ở bàn giữa, còn tôi được lịnh đứng dựa góc cột cạnh bàn thờ. Bất chợt, tôi nhìn lên di ảnh thầy tôi, một thoáng xúc cảm đến với tôi, vui mừng có, e thẹn có… nhưng khi trông thấy “ông roi mây” vẫn còn dựng trên bàn thờ cùng bộ văn phòng tứ bảo, tôi mỉm cười tự bảo chắc là thầy phạt mình đứng dựa cột đây!
Trong khi chủ khách nói chuyện, tôi mệt mỏi nghĩ thầm mình là vai trò chánh hôm nay, mà không ai thèm ngó ngàng gì đến mình. Tôi mãi lo ra, thậm chí không còn biết mình đang ở đâu, đang làm gì, nghĩ bụng mình là khách mà cũng không được mời một tách nước. Bỗng má Thu Cúc đứng lên đi vào nhà trong, trở ra theo sau là Thu Cúc, người bạn học chữ Nho năm xưa của tôi, cháu nội của thầy tôi, giờ nầy là một cô gái xinh đẹp, nhẹ nhàng, uyển chuyển. Thu Cúc mặc một cái áo dài màu tím hoa cà, một cái quần bạc soạn trắng màu hạt trai, mang đôi dép dừa. Nhìn kỹ hơn, thấy cô đeo một cây kiềng cổ vàng, một đôi bông mù u, tóc được bới cao lên có thả bánh lái, thơm mùi dầu dừa. Thu Cúc khá tự nhiên, đến chào ba má tôi, rót nước mời ba má tôi, rồi lại chào lần nữa trước khi trở vào nhà trong.
Nếu không để ý lắm, có thể nói là Thu Cúc không thèm đếm xỉa gì đến tôi, nhưng tôi thoáng thấy khi cúi đầu chào ba má tôi, cô đã dành cho tôi một cái nhìn ấm áp. Tôi thấy lòng mình rộn lên một niềm vui, cho bõ công từ sáng đến giờ bị bỏ rơi. Tôi còn đương đưa mắt theo dõi Thu Cúc, thì ba tôi bảo tôi đến thưa hai bác để cáo từ. Ba lại còn dặn y hệt như đối với một đứa trẻ:
- Bỏ dép ra.
Thế là tôi lại học thêm ở đây một bài học không phải Tam Tự Kinh mà là đường xưa lối cũ.
Sau đó, hai lễ nhỏ ba lễ lớn, bỏ trầu cau, vấn danh… gia đình tôi mới được tổ chức lễ hỏi chính thức nhìn nhận Thu Cúc là dâu nhà tôi và tôi là rể của gia đình thầy tôi. Nhiêu khê lắm, cuối cùng chúng tôi nhận được một tấm giấy hồng đơn bên đàng gái, thỏa hiệp ngày giờ rước dâu: Ngày rước dâu là ngày Quí Mẹo, tháng Mậu Dần, năm Đinh Hợi, giờ Tỵ. Tôi lại phải xin phép nghỉ dạy học một tuần lễ để làm đám cưới. Thời gian nghỉ dài như vậy theo ba tôi là để tôi tập cách làm rể cho phải phép vì bên ấy là gia đình lễ nghĩa.
Rồi giờ H cũng đến. Đoàn rước dâu khá đông, ba má tôi, ông mai, một nhân vật quan trọng trong bất cứ lễ cưới nào của Việt Nam, phải là một người có danh phận, đạo đức, giỏi ăn nói, am hiểu lề lối tập tục.., còn có các vị thân bằng quyến thuộc của gia đình, một số nam, nữ thanh niên cho buổi lễ thêm phần xuân sắc. Ngoài ra còn có một nhân vật cũng rất quan trọng và nổi bật là chú rể phụ. Tiếng là phụ, song những chú rể phụ rất sáng giá đối với các cô đưa dâu và nhứt là các cô dâu phụ bên đàng gái. Tôi chọn chú rể phụ nầy là anh Lành vì nhiều lý do, anh là bạn học chữ Nho cùng với tôi, nhà anh cùng làng với nhà tôi, anh cùng học sư phạm và cùng làm thầy giáo như tôi, và nhứt là anh rất hiền.
Chúng tôi khởi hành rất sớm. Con đường quá quen thuộc với tôi từ bụi cây, đám cỏ, đụn đất gò cao mà tôi đã sáng đi chiều về, gợi lại trong tôi biết bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu. Trên đường đi rước dâu mà hình ảnh cô dâu không có trong tôi, mà chỉ có hình ảnh thầy tôi với dáng vóc gầy gò vì tuổi đời, tiều tụy vì miếng ăn tấm áo.
Thùng thình trong cái áo rộng dày cui, cái quần trắng dài lệt bệt, tôi lê bước chân đã rát bỏng vì đôi giày mới mua, trông cho mau đến nơi. Ông mai đi bên cạnh tôi lẩm bẩm… ngày… tháng… giờ Tỵ… giờ Tỵ… rồi ông lại lẩm bẩm giờ Tỵ là mấy giờ? Rồi làm như sành sỏi lắm, ông co tay lên bấm Tý, Sửu, Dần, Mẹo… À, giờ Tỵ chắc là… tám giờ sáng, tám giờ sáng… giờ kiết mà. Sau gần một tiếng đồng hồ, nhà thầy tôi đã lú dạng ở sau rặng cây. Ông mai sợ trễ nên hối thúc đoàn người nhanh chân.
Đến nơi, ông mai ra lịnh:
- Dừng lại, chỉnh đốn quần áo, sắp sửa lại lễ vật. Trầu rượu nhang đèn xong chưa…
Tất cả răm rắp vưng lịnh. Ông chạy đến chú rể phụ nói nhỏ điều gì đó coi bộ khẩn trương lắm. Đến bên tôi, ngắm lại bộ áo thùng thình của tôi, nói:
- Tới rồi nghen. Đàng hoàng nghen.
Đội ngũ chỉnh tề xong. Ông nhìn lên mặt trời rồi lại ra lịnh:
- Bà con đợi tôi vào xin phép nhập gia rồi vô. Nghe chưa?
Ông dẫn chú rể phụ mang theo khay trầu rượu tiến về phía cổng nhà thầy tôi. Ông mai đến cổng thấy vẫn còn khóa, nhóng cổ nhìn vô nhà, con chó mực sủa vang. Ông tằng hắng. Không ai ra. Ông lớn tiếng gọi. Không ai trả lời. Ông kéo cánh cửa cổng nghe lộp cộp làm cho con chó mực gầm gừ hơn. Mất kiên nhẫn, ông mai lớn tiếng gọi ơi ới, trong nhà có người đi ra nói gì đó khiến ông tiu nghỉu trở ra, vẻ mặt bí xị nói:
- Ở trỏng người ta nói chưa tới giờ nhập gia.
Có người hỏi:
- Chừng nào?
Ông trả lời xuôi cò:
- Ai biết !
Thế là đoàn rước dâu chúng tôi lại phải chờ và chờ… chờ cái giờ Tỵ tốt lành nầy đây. Nắng lên, mọi người không còn giữ được nữa, ngồi bệt xuống hai bên lề đường. Các cô gái cũng không còn kiểu cách nữa, tìm mấy gốc cây dựa lưng, phấn son loang lổ. Chú rể phụ, từ sáng lạc quan bao nhiêu, bây giờ lại uể oải, tìm nơi để khay trầu rượu xuống rồi bỏ đi vô ... một lùm cây. Ông mai lóng ngóng nhìn vào cổng nhà đàng gái, xem coi có dấu hiệu nào cho biết giờ Tỵ đã tới chưa. Trời bỗng nhiên râm mát. Mọi người thở dài nhẹ nhõm, giờ Tỵ chưa tới cũng được, miễn là trời mát là được rồi. Ông mai chạy tới chạy lui động viên:
- Giờ khắc quan trọng lắm, vợ chồng ăn ở với nhau có thuận hòa hay không, có con đàn cháu đống hay không là do giờ tốt… vậy chờ một chút có sao đâu…
Mọi người lại an tâm, nhứt là tôi, vì tôi là người trực tiếp chịu ảnh hưởng mà. Tuy nhiên, nỗi mừng chưa trọn thì mưa đã lắc rắc rơi. Gió nổi lên. Bầu trời xám xịt. Tiếng mưa càng dồn dập. Ông mai chạy lại cổng nhìn vào nhà, con chó mực lại gầm gừ mà vẫn không có ai ra mời vô. Giờ Tỵ vẫn chưa đến. Cái giờ tốt lành nầy còn xa, còn mưa thì đã gần, càng ngày càng lớn. Những cây dù che nắng giờ nầy được giương lên để chống chọi với những hột mưa càng ngày càng nặng. Cánh cổng nhà cô dâu vẫn im ỉm.
Thế là cả đoàn rước dâu theo bản năng, đã tự động chạy vào một ngôi nhà gần đó để đụt mưa. Tôi cũng không lạ gì đối với ngôi nhà nầy. Chủ nhân của ngôi nhà cũng là một chức sắc trong làng, cùng trạc tuổi với ba tôi, lẽ tức nhiên là hàng xóm của ba má Thu Cúc. Những người khách không mời mà vô, lúc đầu còn e dè, nên chen chúc ở hàng ba, hai bên chái. Chủ nhân từ trong nhà bước ra niềm nở mời vô nhà. Ông mai ngại sự kiêng cữ gì chăng nên tỏ lời chối từ, nhưng chủ nhân cởi mở:
- Mời tất cả quí ông quí bà vào trong, cho khô ráo rồi uống nước, chờ đến giờ rồi mình nhập gia. Có sao đâu.
Thế là chúng tôi vào trong nhà. Vô tình ba má tôi ngồi ở bàn giữa cùng các vị cao tuổi, bên kia là hai ông bà chủ nhà tốt bụng. Các cô các cậu vui vẻ chiếm lĩnh hai bộ ván hai bên. Chú rể phụ và chú rể chánh vẫn đứng dựa cột, trên tay người nầy khay trầu rượu, trên tay người kia một bó hoa. Thoạt nhìn thì quả đây là một lễ rước dâu chớ không phải là cảnh đụt mưa. Bà chủ nhà gióng tiếng vào trong:
- Phụng ơi, đem nước ra con.
Từ trong nhà sau, Phụng đi ra, tay bưng một mâm bình trà, tách uống nước, cúi đầu chào chung mọi người, nhưng với riêng tôi, cô nheo mắt một cách ranh mãnh, thầm nói với tôi một điều gì mà tôi nghĩ là cô cố ý chọc ghẹo tôi. Sau khi đãi nước ở bàn chánh, cô bưng lại hai tách nước đến bên tôi và chú rể phụ:
- Mời chú rể chánh và chú rể phụ uống nước, rồi đi rước dâu kẻo lỡ hội.
Cô Phụng vốn là bạn học sư phạm với chúng tôi, cùng ra dạy nhưng được về tỉnh nhà vì là nữ. Cô dạn dĩ, vui vẻ, cởi mở nên được mọi người yêu mến. Trong lúc đó, ba má tôi nói chuyện gì đó với ba má Phụng coi có vẻ tâm đắc lắm. Mưa dần dứt hột, trong khi đoàn người chúng tôi ấm áp trở lại, trong bầu không khí vui vẻ của gia đình hiếu khách nầy. Trái lại với lúc mới đến, giờ đây mọi người lại ngại một việc có vẻ trái ngang, là phải ra ngoài để nhập gia. Ai cũng nghĩ với bộ vận như vậy, quần áo ướt sũng, giày guốc bùn sình, đường lộ lầy lội, mọi người cũng đã ngao ngán cái cảnh đợi chờ bất tận. Cho nên khi có một đại diện bên đàng gái đến, xin phép ông chủ nhà cho vào gặp ba má tôi, để báo tin giờ Tỵ đã đến, có thể tiến hành lễ nhập gia. Ba tôi đứng lên từ tốn thưa lại:
- Xin nhờ về trình với anh chị tôi, là tôi xin phép hoãn lại cuộc rước dâu hôm nay, và xin được thảo luận sau để định ngày trở lại. Vì như ông thấy, tình cảnh chúng tôi như vầy mà tiến hành lễ, xem ra bất kính quá.
Thế là lễ rước dâu của tôi không thành. Đoàn người trên đường về xem ra còn vui vẻ hơn khi đi. Ông mai cụt hứng vì không có cơ hội để trổ tài ăn nói, miệng vẫn lẩm bẩm giờ Tỵ, giờ Tỵ… Ba má tôi cũng không nói gì, nhưng dường như hai ông bà cũng không buồn vì đón dâu hụt. Các cô, các cậu đi rước dâu, cứ theo chọc ghẹo chú rể phụ và tôi. Trong bộ dáng của tôi trên đường về, áo dài thụng ướt sũng nặng chình chịch, chiếc khăn đóng lột ra cặp nách, đôi giày hàm ếch xách trong tay, ống quần be bét bùn đất, thật tội nghiệp làm sao!
Dù vậy tôi tỉnh bơ, không hụt hẫng, không thất vọng, vì từ lúc tôi cắp dù đi coi vợ cũng do ba má tôi bảo, lúc đi làm lễ mấy lượt cũng do ba má tôi bảo, rồi khăn đóng áo dài đi rước dâu cũng là do ba má bảo…, tôi có làm chủ tôi đâu? Đặt đâu ngồi đó mà. Hơn nữa thầy tôi đã từng ngâm nga: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu.” Cái câu trước, tôi không để ý lắm, vì vua chúa tôi ở đâu tôi không biết mà ổng cũng không biết tôi. Còn câu sau thì gay lắm. Cha ở sát bên mình thì ông xử thế nào mình phải chịu thế ấy. Hơn nữa ông có xử gì nặng cho cam: Đi cưới vợ, sướng lắm rồi. Cho nên cha mẹ bảo sao tôi làm vậy mà. Biết đâu, rồi đây tôi còn vưng lịnh ba má tôi làm điều gì nữa đây? Cung kính bất vi phụng mạng. Nói câu nầy tôi lại nhớ đến thầy tôi rồi.
Tôi hết phép, lại trở về nhiệm sở dạy học, có điều các bạn đồng nghiệp được tôi mời về ăn tiệc cưới, mà không có cô dâu nên khoái chí, lan truyền thành một vấn đề thời sự nóng bỏng.
Một năm sau, cũng một đoàn rước dâu, cũng ba má tôi, cũng ông mai chuyên nghiệp đó, cũng thân bằng quyến thuộc đó, cũng các cô cậu thanh niên đó, cũng chú rể đó lên đường… chỉ có thay đổi một người, người đó là chú rể phụ, anh Lành, vì anh bận không thể giúp tôi được. Con đường vẫn là con đường cũ, khoảng cách giữa họ đàng trai và đàng gái cũng không thay đổi. Chỉ có khác là nhà cô dâu bây giờ không phải là nhà của Thu Cúc mà là nhà của cô dâu khác, cô dâu Minh Phụng.
Số là, ba má tôi cám cảnh gia đình của Phụng, nhứt là biết Phụng cũng là bạn học và là đồng nghiệp của tôi, nên đã trầu rượu đến nhà ba má Thu Cúc để tạ lỗi từ hôn. Sau đó ba má tôi lại xin làm sui với ba má Minh Phụng. Lần nầy ông mai không phải tốn nhiều công sức, mà lễ rước dâu vẫn được tiến hành đúng theo thông tục, gọn gàng nhanh chóng, với sự hài lòng của mọi người.
Trên đường về đi bên cô dâu, lòng tôi nao nao một nỗi buồn, một ray rứt xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi nhớ đến Thu Cúc từng giai đoạn khi còn nhỏ. Lúc quây quần đọc bài, sắp xếp lại bộ văn phòng tứ bảo cho thầy, lúc cùng quét sân đun nước, lúc tôi được thầy khuyên “đỏ” nhiều, Thu Cúc đã nhìn tôi có vẻ trìu mến, lúc Thu Cúc chịu đòn đau mà không hề khóc, ngày tôi đi coi mắt Thu Cúc, Thu Cúc đã giả vờ cúi xuống để được nhìn tôi, và tôi mường tượng Thu Cúc đã buồn biết bao nhiêu, khi lễ rước dâu năm ngoái bất thành, và hôm nay… hôm nay trong khi tôi làm lễ trước từ đường của gia đình Minh Phụng, Thu Cúc đã nghĩ gì…?
Và tôi cũng nhớ đến thầy tôi, một nhà Nho lỡ vận, mưu cầu đem chữ thánh hiền lưu truyền lại cho đàng con cháu. Nhớ tới thầy, khi học trò nộp bài viết với tuồng chữ đúng bộ, đúng nét, sổ đứng, gạch ngang cứng cỏi, thầy vỗ đầu khen, bảo là sẽ có chí khí. Nhớ tới thầy, khi thầy đánh đòn, vẫn biết học trò chơi khăm lót đít mo cau, mà vẫn giả đò như không biết. Nhớ tới thầy đã cùng ông nội tôi, giao ước để đính hôn cho tôi cùng Thu Cúc…
Thế mà tôi đã phản thầy, không giữ tín nghĩa. Tôi lại nhớ thầy, mỗi lần học trò hư, thầy lại giành lấy trách nhiệm: “Giáo bất nghiêm, sư chi đọa”. Đó là thầy cao thượng tự trách mình, nhưng riêng con thì không phải vậy, vì con là một đứa học trò bất nghì, hư thân mất nết, không noi gương thầy sống cuộc đời “an bần lạc đạo”. Nhớ đến Thu Cúc, tôi chỉ thương cảm, nhớ đến thầy tôi không cầm được nước mắt lã chã. Tôi nói với tôi: Thầy ơi, nhất định con sẽ chuộc tội con trước thầy.
***
Năm tháng qua, hai mươi năm sau, cũng một lễ rước dâu, cũng xuất phát từ nhà tôi, cũng trên con đường mà tôi đã hai lần đi rước dâu. Có điều là lần nầy chú rể không phải là tôi, mà là con trai đầu lòng của tôi. Còn tôi và vợ tôi đã lên hàng thông gia. Trên đường đi đến họ đàng gái, tôi chợt nhớ lại lần rước dâu bất thành với Thu Cúc, tôi không cảm thấy buồn mà trái lại tôi vui vẻ hơn bao giờ hết. Tôi mong sao nhanh chóng đến nhà đàng gái để đón cô dâu, cô con dâu của tôi, có lẽ tôi còn nôn nóng hơn thằng con trai của tôi. Vợ tôi biết ý tôi nên nhìn tôi mỉm cười.
Vậy là ngôi nhà của sui gia tôi đây, mà cũng là nhà của thầy tôi trước đây, tức là ngôi nhà của Thu Cúc hay nói cho đúng hơn là ngôi nhà của vợ chồng thầy giáo Lành, cũng là bạn học của tôi và Thu Cúc, chú rể phụ hụt của tôi năm xưa. Cũng cổng cũ nhưng được mở toang tự lúc nào. Chúng tôi vào nhà. Được phân ngôi chủ khách nơi bàn giữa, bên đây là vợ chồng chúng tôi, bên kia là vợ chồng sui gia gái, tức là thầy giáo Lành và cô Thu Cúc. Ông mai định mở lời để tiến hành nghi thức, tôi xin thông gia cho phép tôi làm lễ thầy tôi trước.
Tôi đứng lên cầm khay trầu rượu, đến bàn thờ thầy tôi, đốt ba nén hương, rót ba chung rượu, chắp tay xá thầy và thưa rằng:
- Thưa thầy, thằng học trò bất nghì nầy, hôm nay đến chuộc tội với thầy đây. Xin thầy lấy lượng khoan dung mà tha tội bất tín, bất nghĩa cho nó. Mặc dầu thầy đã từng giảng cho con nghe: Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng. Tuy vậy, trong bất cứ trường hợp nào ở đây, con cũng là người có tội với thầy. Hôm nay con đem đứa con trưởng của con về nhà thầy, để nó được diễm phúc gọi thầy là ông cố và để gọi Thu Cúc là má, có như thế con mới chuộc được tội của con. Được vậy lòng con sẽ nhẹ nhàng hơn. Xin thầy nhận ba lạy của con.
Tôi lễ thầy xong, trở lại bàn ngồi. Vợ chồng giáo Lành nói:
- Thôi lễ ra mắt ông bà của anh như vậy đã đủ rồi. Chỉ cần thằng Trung Nghĩa và con Hiếu Thuận lạy ra mắt ông cố là xong. Chúng ta dự tiệc.
Tôi vui quá nên có lỡ lời, mà sao không ai bắt lỗi cả:
- Ý, thằng Trung Nghĩa và con Hiếu Thuận còn phải lạy ra mắt hai ba, hai má nữa chớ.

Chiều lại về nhà, vợ tôi thấy tôi vui vẻ, nói cười luôn miệng:
- Sao mà ông vui dữ vậy?
Tôi nói:
- Đám cưới mà.
Bà lại nói tiếp:
- Đám cưới của con chớ bộ của ông sao?
Chỗ nầy, tôi hết cãi nên làm thinh. Vợ tôi mon men lại gần nói tiếp:
- Gặp chị Thu Cúc coi bộ mừng quá hén?
Tôi mắc cỡ nhìn chỗ khác. Thật sự, tôi vui không vì tôi gặp lại Thu Cúc, mà tôi vui vì tôi đã nói được với thầy tôi lời tạ lỗi tưởng chừng như không bao giờ có, nếu trời không giúp tôi.
Bất giác, tôi lẩm bẩm trong miệng: Gia nhà, quốc nước, tiền trước, hậu sau, lục sáu, tam ba...





                 

3 comments:

Anonymous said...


Không phải tại tôi cũng không phải tại anh, tại vì trời xui khiến hai đứa mình mới chung đôi hay hai đứa mình mới xa nhau. Đúng y chang chuyện tình của MN trong bài nầy. Chỉ cần cửa nhà cô dâu mở thì MN và Thu Cúc đã thành đôi. Chú rễ phụ Lanh,không biết có phải họ Nguyễn không, và Phi Phụng là hai người đến sau mà lại đi trước vì tập tục GIỜ LÀNH hay tại trời xui khiến?
Có một ông bạn đồng nghiệp tiệc cưới xong, về tới nhà cô dâu liền chạy vô phòng đóng cửa lại, anh bạn tôi năn nỉ cách mấy cũng không chịu mở, chỉ nói vọng ra: Chưa tới giờ lành. Đành chịu có tức cũng phải chờ.
Tưởng có anh bạn chịu hoạn nạn vì giờ lành mà cả các cô dâu chú rễ của Do Thái cũng bị như vậy.
Tiệc cưới xong, theo kinh thánh Do Thái, cô dâu và chú rễ cùng vô phòng hoa chúc. Cô dâu phải sửa soạn và sẳn sàng chờ chú rễ động phòng lúc 12g đúng. Trong khi chờ tới giờ, chú rễ phải ngồi trên bàn đọc kinh. Đọc kinh Do Thái có cái lạ là miệng đọc kinh còn đầu đập nhẹ vào tường nếu đứng, còn ngồi thì đầu đập nhẹ vào bàn. Lúc đầu chú rễ còn đập nhẹ vào bàn, nhưng sau đó liếc thấy cô dâu trong tư thế sẵn sàng, tiếng đọc kinh không còn nghe nữa mà chỉ nghe tiếng của cái đầu đập rầm rầm vào bàn!!!!!!!!!!
BLG









Anonymous said...

Cũng cùng thời bác MN đi cưới vợ, ở làng Tây Yên Huyện An Biên RG cũng có cái đám cưới. Đàn trai từ Long Xuyên vô RG rước dâu, cũng phải đứng lóng nhóng ở bờ sông chờ đến giờ đã hẹn. Quá giờ rồi của nhà gái vẫn đóng. Thiệt lâu sau mới có người ra mời đàn trai vô nhà. Khi cô dâu bước ra thì bên đàn trai hè nhau .. khóc hết trơn.
Hồi nhà trai đi coi mắt thì cô gái thiệt ngộ, có duyên. Bây giờ đứng trước từ đường là cô chị, xấu ơi là xấu. Nhưng rồi thông cảm với nhà gái, đám cưới vẫn được tiếp tục. Cô dâu thiệt thì trước khi đàn trai tới đã trốn mất tiêu. Nhà gái kẹt cứng phải bắt cô con gái lớn thế vô.
Nàng dâu xấu xí về Long Xuyên, sống rất hạnh phúc với chồng đến già, sau nầy là mẹ của một vị tướng lVNCH, là tư lệnh CSQG một thời.
Bác MN viết bài thiệt hay, tui khoái đoạn cuối, nhứt là lúc bị bác gái bắt trúng tim đen ….Gia nhà, quốc nước, tiền trước, hậu sau, lục sáu, tam ba... đám cưới ngưới ta, mà tui vui quá …xá.
Cảm ơn bác MN. YT

Anonymous said...

SƯ Bá ơi !
Chú rể phụ đó họ gì thì đệ tử không rỏ. Nhưng chắc không phải họ Nguyễn rồi. Thuở ấy đệ tử còn nằm trong bụng mẹ mà .LN