.
___________________
Chuyển từ BLG
Sưu Tầm
Dân Sài Gòn chính hiệu “con nai vàng” chẳng bao giờ và sé không
bao giờ gọi Saêi Gòn là thành phố hcm. Sài gòn mãi mãi là Sài Gòn,
không một nhóm người nào có quyền và có đủ tư cách để có thể lấy
cái tên Sài Gòn thân thương ra khỏi trái tim của Người Sài Gòn.
Không
nhất thiết là vì lý do chính trị. Thằng Tí thằng Tèo trong
mắt bà ngoại trăm năm vẫn là thằng Tí thằng Tèo, bất kể địa vị xã hội của nó là
gì.
***
Sài Gòn, dù trong thời
buổi khó khăn nhất, vẫn như một cô tiểu thư đài các: đỏng đảnh đôi chút mà dễ
thương thiệt nhiều.
Nhắc đến Sài Gòn người ta
hay nhắc đến mưa, nhưng tôi lại nhớ dai dẳng cái nắng gay gắt của nó.
Nhà tôi ở một con đường
nhỏ. Trưa hè đặt cái “lưng dài vai rộng” xuống nền gạch bông mát lịm, ngắm bầu
trời xanh ngắt, gió nhẹ hiu hiu, thì không có nơi nào trên quả đất này cho cảm
giác thanh bình hơn.
“Một ngõ vắng xôn xao
Nằm trong lòng phố lớn…”
Khác với Hà Nội, không
gian Sài Gòn rất thoáng, chí ít là cách đây hơn 15 năm. Không gian của một buổi
trưa hè hiu gió còn thoáng hơn vạn lần. Tôi luôn có cảm giác mình có thể bay
bổng lên, thò tay với cụm mây bồng bềnh trêu ngươi.
Tuy thoáng, không gian
Sài Gòn không bao giờ làm ta cảm thấy lạc lõng. Những tiếng rao thi thoảng của
người bán dạo nghe nao nao, cuộn cả buổi trưa hè thành một miếng bột bánh bèo
trắng phau với ít đậu xanh, mỡ hành, nước mắm đường ngọt lịm.
Từ ve chai, bánh bao chỉ,
chè đậu xanh bột báng nước dừa, kẹo kéo, tàu hủ, đến mì gõ,… đều có nguời mang
đến tận cửa. Có rất nhiều tiếng rao mà đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nghĩa,
nhưng nghe cái cung nhạc ấy thì biết ngay là họ bán cái gì.
Người Sài Gòn cũng thoáng
như không gian Sài Gòn vậy! Không đâu có thể dễ có nhiều bạn, và bạn không tồi,
như ở Sài Gòn. Không chỗ nào trên đất Việt Nam người ta sống năng động và
khoáng đạt hơn ở Sài Gòn.
***
Trước khi bàn chuyện
“người lớn” này, xin mạn phép quay lại chuyện thằng Tí thằng Tèo.
Ðối với một thằng Tèo Sài
Gòn chính gốc con nhà nòi thì Sài Gòn dĩ nhiên là “bự” hơn một buổi trưa hè.
Sài Gòn là những chiều tụ
tập bấm chuông nhà người ta, cho đến khi nghe chửi “D.M. tụi bai con cái nhà ai
mất dại bấm chuông wài dzậy!!!” thì mới chịu vắt giò lên cổ chạy.
Sài Gòn là các hồ bơi Lao
Ðộng, Chi Lăng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là mấy củ khoai mì nóng hổi với dừa nạo, là
nước mía lạnh, là ốc dích ốc táng, là bắn bi ca-de với những câu đồng dao khó
hiểu như thần chú: “lang cang báng dội ăn tiền”. Nói sai hay nói thiếu một chữ
là đánh nhau chí tử để rồi ngày mai lại càu nhàu chơi tiếp.
Sài Gòn là những buổi tối
cúp điện, tụ họp ca hát hay vừa hồi hộp vừa thích thú nghe và kể chuyện ma như
chính mắt mình thấy hôm qua.
Sài Gòn là những con diều
làm đi làm lại, treo thêm cả vài cái lưỡi lam để cắt dây diều khác; là dế hộp
quẹt thổi phù phù “đá bắt xác”; là chùm ruột chua ngọt, những cùi thơm, cóc ổi
ngâm cắm que cà rem “đa năng” không biết đã được dùng lại bao nhiêu lần.
Lớn lên một tí, Sài Gòn
là cô bé hồi hộp chờ thằng Tèo hái cho cả cành phượng về ép làm bướm; là hàng
điệp trải thảm vàng rực ở trường phổ thông; là quán cà phê từng buổi đón em về.
Xin trích đoạn một bài
hát tôi viết đã lâu, đặt tên (rất tự nhiên) là “Lâu Lâu”:
“Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa
Buổi trưa thường hái trộm me
Thằng leo, thằng đứng làm thang
…
Lâu lâu ngồi nhớ hồi xưa
Phượng cao mấy cũng trèo lên
Chỉ vì cô bé mắt tròn xoe… mắt tròn xoe”
Dĩ nhiên, cô bé mắt tròn
xoe của tôi vẫn đang ở… Sài Gòn.
Sài Gòn đáng yêu lắm! Nó
đơn giản và khoáng đạt, không bao giờ cần cái văn vẻ “màu mè ba lá hẹ”, không
cần các suy nghĩ tự tôn ra vẻ triết gia hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác
quan điểm.
***
Sài Gòn còn là thành phố
của sự đối lập: giữa những biệt thự kín cổng cao tường và đám nhà ổ chuột trên
những con kênh hôi hám; giữa văn minh đô thị và những tiếng chửi thề; giữa sự
ồn ào bụi bặm và không gian im lắng thanh tao. Nổi bật hơn tất cả là sự đa
dạng vô cùng của con người Sài Gòn. Ðặc biệt là họ không sống “như đã từng được
sống”, mà luôn “sống như chưa được sống bao giờ”.
***
Ẩn mình sau các hàng bông giấy, dây thủy tiên
chói đỏ, là những ngôi biệt thự lúc nào cũng kín cổng. Không ai biết những
người sống trong đó làm gì, là ai, và cũng chẳng ai thật sự quan tâm… ngoại trừ
bọn thằng Tí thằng Tèo.
Bọn nhóc chúng tôi thường
có rất nhiều các truyền thuyết về những người sống trong mấy ngôi nhà ấy.
Ở đầu ngõ nhà tôi cách
đây khoảng 20 năm có một ngôi nhà như thế, chỉ hơi khác là hai cánh cửa sắt to
đùng lại thấp lè tè. Mỗi chiều có một anh chàng vác ghế đẩu cao ngồi tì tay lên
cửa trông ra đường. Gã chẳng bao giờ cạo râu cắt tóc. Mặc dù nắng chiều rạng rỡ
xóa bớt phần nào sự ma quái, bọn tôi vẫn chẳng dám đến gần gã. Người ta có rất
nhiều “lý thuyết” khác nhau về gã: nào là người yêu bỏ đi Mỹ, bị chế độ mới lấy
sạch mất gia tài, vân vân và vân vân. Cuối cùng hình như hắn chỉ giả điên để
trốn nghĩa vụ quân sự. Ðến khi hết tuổi người ta thấy hắn cạo râu, cắt tóc ngắn
chờ ngày xuất cảnh.
Dù gì thì gì, những ngôi
biệt thự vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho hàng tỉ câu chuyện mê li rùng rợn bọn
tôi truyền miệng mỗi tối cúp điện.
Chỉ cách những tòa lâu
đài ấy vài trăm mét là một xóm lao động nghèo với những “truyền thuyết” kiểu
khác hẳn: truyền thuyết về các “anh hùng” du đãng như trong tiểu thuyết Duyên
Anh.
Ði thêm khoảng trăm mét
nữa là đến con rạch thúi hơn cầu tiêu công cộng ở Ðại Học Bách Khoa tỉ lần. Vậy
mà tôi vẫn từng đi câu cá bống, vớt trùng chỉ với lũ bạn. Câu cả ngày được 2
con cá nhỏ hơn ngón tay út. Chỉ có trùng chỉ là lần nào cũng vớt được rất
nhiều, làm mấy con cá Tàu nhà tôi ăn sình bụng bơi lặc lè kéo theo dây phân dài
cả thước.
“Xóm” tôi có khá nhiều
nhà có piano. Chiều chiều nghe lũ nhỏ tập từ Methode Rose, Hannon đến Classic
3, từ sòn đô sòn đến Tempest. Lẫn vào trong đó luôn là tiếng chửi thề của bà Tư
nhà bên cạnh. Có lẽ chẳng có món “xí quách” nào… xí quách hơn sự pha tạp của
hai loại âm thanh ấy.
Buổi chiều ở Sài Gòn đối
lập hẳn với buổi trưa yên tĩnh. Dường như cái dìu dịu của nắng ấm làm người ta
có nhiều năng lượng hơn. Chí ít là bà Tư lúc nào cũng có thừa năng lượng vào
buổi chiều. Bà chửi từ ông Tư tới thằng con mất dạy. Ông Tư thì chẳng nói lại
nhiều lời trừ khi mới nhậu xong. Chai rượu đế gò đen (chứ hổng phải ổng) vác
dao bửa củi gí vào cổ bà vợ to béo, gã con trai thì vừa can vừa… đục luôn ông
già, trong lúc đó tiếng Tempest vẫn vang vang ngắt quãng.
Ðiểm lạ (!?) nhất là
tiếng Tempest vài năm sau biến mất, còn vợ chồng ông bà Tư vẫn sống “vui vẻ”
với nhau như thế…
***
Tính đối lập của Sài Gòn
rõ nét nhất là vào buổi tối. Người ta đã viết rất nhiều về “Hòn Ngọc Viễn Ðông”
và tính phân chia giai cấp khắc nghiệt của nó. Ðó là trước 75. Sau tháng Tư,
1975, cái danh hiệu "Hòn Ngọc Viễn Ðông" bị Bangkok cướp mất, nhưng
tính đối lập của Sài Gòn chẳng ai cướp nổi.
Sài Gòn không bao giờ
ngủ. Khoảng 9, 10 giờ đêm là các vũ trường bắt đầu hoạt động. Bọn con nhà giàu
tí tởn hẹn hò dream, LA, su 100, quần xẻ, váy cao, phóng vù vù qua các đường
Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Hàm Nghị… sau đó vọt đi mấy cái Discoteques vang bóng
một thời như Thái Sơn, Cadillac, Queen Bees, ...
Phong
trào đua xe thì Sài Gòn luôn đi đầu. Thủa chưa có nhiều xe gắn
máy thì bọn choai choai đã biểu diễn đi xe đạp một bánh xoay mòng mòng hàng đêm
trước nhà hát lớn. Ðến khi có xe gắn máy nhiều rồi thì cả đội “Bồ Câu Trắng”
cũng chẳng bị ai ngán. Hơn nữa bị giam xe thì một bữa chân gà rút xương ở Hàm
Nghi là lấy xe ra cái rụp.
Khuya hơn nữa thì gái “Ca
Ve” tràn về các quán cơm tấm, mì xe để “đá đèn” (ăn đêm). Bọn “dân quậy” bao
gồm lũ nhóc mới lớn lẫn dân giang hồ thứ thiệt cũng tham gia đá đèn la hét đến
3, 4 giờ sáng.
Cùng khi đó các em nhỏ
bán vé số cũng hoạt động cật lực. May mà vớ phải dân chơi trúng quả nó mua cả
cọc thì ngày mai không phải lo tiền ăn. Cựu chiến binh, thương phế binh thì vác
đàn hát “Phố Ðêm”, cay đắng xin từng đồng của lũ nhỏ mặt búng ra sữa chưa bao
giờ hiểu hai chữ “mất mát” nghĩa là gì.
Ðến 3, 4 giờ sáng, khi lũ
dân chơi đã hoàn toàn mệt lử lũ lượt ra về, thì dân lao động bắt đầu một ngày
mới. Xích lô, ba gác chở rau thịt ra chợ bán. Các lò bánh mì bắt đầu xay bột
trét bơ nướng bánh thơm lừng. Mấy chị bán cà phê vỉa hè cũng bắt đầu đun nước,
pha cà phê vợt cho gã xích lô mới tỉnh ngủ mắt vừa nhắm vừa mở vừa tán tỉnh.
Mùi mồ hôi lẫn với mùi
bơ, mùi men, mùi khói SU-100 dần biến, quyện với mùi không khí ẩm mát tinh
sương tạo ra “mùi Sài Gòn” buổi sáng ở các khu phố chợ rất đặc trưng.
***
Dân Sài Gòn “quái chiêu”
lắm, lúc nào cũng than thiếu tiền, nhưng không sống tằn tiện bao giờ! Họ
hào hiệp với bản thân và bè bạn; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền.
Nhiều người bảo tôi rằng
dân Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, sống hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống
rộng rãi hơn dân miền Trung và miền Bắc.
Có lẽ đúng. Nhưng còn cái
gì đó hơn thế nữa! Kiểu ăn xài “xả láng sáng dậy sớm”, dù nghèo rớt mồng tơi,
dường như ăn vào máu của dân Sài Gòn, ăn vào không khí họ thở hàng ngày, ăn cả
vào cái văn hóa hổ lốn cẩu xực của họ. Dĩ nhiên để ăn xài thì đầu tiên phải
kiếm ra tiền.
Kiếm tiền thì có lẽ không
đâu có nhiều cách như Sài Gòn.
Trong thời còn ăn bo bo,
gạo tổ đỏ lòm, thời dân Hà Nội còn ganh nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp
Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường tiêu chuẩn, thì dân Sài Gòn đã bắt đầu nuôi heo
lậu, quấn thuốc lá Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây “bột năng”
đầy ngoài chợ… Hiển nhiên một phần là do ưu thế xa “trung ương”, nhưng phần
chính là do dân Sài Sài Gòn sống rất “năng động”.
Những năm 79, 80 mà thấy
anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi lấm lét ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là
hắn buôn thuốc Tâỵ Sau khi chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu biến
thành cái chợ trời đầu tiên của Sài Gòn sau 75. Ôi thôi thì quần zin áo pun, đồ
Mỹ lẫn đồ chợ Lớn, bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp…
Ở Sài Gòn cái gì bán được
là có người bán. Ðừng hòng mà mua được đồ xịn nếu mà không quen biết hay hiểu
biết. Nhiều người tự thị là “rành” nhất bị lừa mà vẫn còn hí hửng. Ðó là chưa
nói đến giá cả trời ơi. Tôi thường tự hỏi ai cũng bán hết thì lấy ai ra mà mua?
Tiền đâu ra mà mua? Thế mà chợ lúc nào cũng đông. Ðúng là Sài Gòn!
Nếu không thích cảnh chợ
búa “gần mực” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha
cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa ít nhất hai lần một ngày, sợ
hôi thì ít, mà sợ công an phát hiện thì nhiều. Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe
ba gác đến chở. Bọn lái heo lậu giết heo còn giỏi hơn công nhân chuyên giết-mổ
heo ở xí nghiệp Cầu Tre sau nàỵ Chích điện con heo chỉ kêu cái “éc” là chết
ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất chừng mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo
tươi bán ở chợ
Khi xí nghiệp nước đá Sài
Gòn chưa ra đời thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá. “Cho con 2 cục đi
dì ơi!” là câu cửa miệng trưa hè của dân Sài Gòn. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ
vừa phải có tiêu chuẩn. Mua cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho các
quán cà phê vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho gia đình là giỏi.
Người ta còn buôn cả
những thứ tưởng chừng như chẳng có người mua vào thời đó như pho mai Liên Xô
thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lã và cồn…
Ðến giữa và cuối thập
niên 80 thì cơ hội kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học sinh nghèo thì đi
dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Ảu, buôn
thuốc lá Campuchia, mua bán xe gắn máy kiếm vài chỉ dẫn “ghệ” đi chơi dễ như
bỡn. Bọn Tèo kinh doanh còn buôn cả đất đai, làm xây dựng kiến tiền tỉ khi còn
chưa ra trường. Không nhất thiết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống
cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai!
Kể cả các thầy dạy luyện
thi đại học cũng biết làm ăn ra trò: xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy
lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất
biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang danh
tiếng cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ.
Các chị các cô khéo tay
thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa,
kem chuối tăng thu nhập gia đình.
Ðừng tưởng dân Sài Gòn
chỉ lo làm ăn không đọc sách. Sài Gòn có vài trăm tiệm sách cũ mà dân nghiền
sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước
30/04/1975, chưởng Kim Dung, đến hình ảnh sách báo “người lớn” của Mỹ, Hong
Kong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant, và mọi loại truyện ngắn, dài, tiểu
thuyết nội ngoại, đều có cả.
Nhân chuyện buôn thuốc,
tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn hai cây thuốc Jet bị bắt tịch thu luôn cả cái
xe dream. Rõ là ngu! Thằng cu phá phách kinh khủng, nhưng cũng vui tính ra
phết. Có lần ngồi uống cà phê hắn bảo cô bán hàng: “Liên ơi cho anh mượn sợi
dây thung.” – “Chi dzậy anh?”, Liên hỏi Nó
bảo: “để anh thắt ống dẫn tinh”. Cô bé mặt đỏ lừ không biết có bỏ cái gì vào ly
cà phê của nó không.
***
Sài Gòn là thế đấy, muôn người
muôn mặt, đa dạng vô cùng!
Dù phần nào bị cuộc sống
sôi nổi cuốn trôi, Sài Gòn vẫn có nhiều thằng Tèo mộng mơ làm thơ viết truyện
dễ thương khôn tả: làm ăn tay phải, văn nghệ tay trái. Hình ảnh con Thơm cái
Thắm hàng me gốc điệp không bao giờ phai nhạt trong mắt bọn Tèo Sài Gòn.
Tôi vẫn còn nhớ Tèo
Nguyễn Nhật Ảnh với “cô gái đến từ hôm qua”, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ
tích dành cho người lớn” …
“Lòng em như chiếc lá khoai
Ðổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu…”
Hay Tèo Bùi Chí Vinh:
“Cô gái ơi anh nhớ em,
Như con nít nhớ cà rem vậy mà
Như con dế trống đi xa,
Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi
Con dế thường gáy một hơi,
Còn anh gáy hết… một thời con trai…”
Ðến đây tôi chợt nhận ra
rằng viết về “một thời để nhớ”, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất
dễ, dễ đến mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng “xổ nho” được vài dòng.
Khi viết cái gì ít vô
thưởng vô phạt hơn một chút thì phải bắt đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc
trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em…
Tôi đã định dừng ở đây vì
câu chuyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng ban đầu của bạn đọc, nếu có, chắc cũng
không còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng chẳng thể để lại trong lòng bạn đọc ấn
tượng về một Sài Gòn với hai cây thuốc Zet, tôi lại phải tìm cách khác để kết
thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Zet là mấy.
***
Nếu phải so sánh Sài Gòn
với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ổi đào
Hà Nội thơm lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa
khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ổi Sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không
ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể
chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt nghe qua là chảy nước miếng.
Con gái Sài Gòn cũng vậy,
nghe qua là… chảy nước miếng.
Con gái Sài Gòn dễ thương
lắm! Họ có cái nhìn trong trẻo về cuộc sống, lại chẳng giận dai vùng vằng vô lý
bao giờ. Ði đón trễ thì: “anh để em chờ nãy giờ đó coi có được hông? Ghét dễ sợ
luôn hà!” Cộng với một cái lườm, hai cái nguýt thì bọn Tèo Sài Gòn hối hận quá
cả 2 tháng sau mới… trễ lần nữa
Con gái Sài Gòn còn biết
ăn mặc, đi đứng, nhất nước. Tiền có thể thiếu chứ phong cách tiểu thư thì chẳng
thiếu bao giờ. Tiểu thư Sài Gòn không ưỡn ẹo mè nheo, mà phóng xe vèo vèo đứng
tim Tèo.
Giọng gái Sài Gòn thì
ngọt hơn mía lùị Cái câu “hổng chịu đâu!” mà nghe dân xứ khác nói thì ngứa lỗ
nhĩ, nghe con gái Sài Gòn nói thì bọn Tèo Sài Gòn như bong bóng xì hơi, biểu
cái gì cũng nghe ráo trọị Con gái Sài Gòn lãng mạn chẳng kém ai, nhưng cũng rất
thực tế. “Ðược thì được, hổng được thì thôi, làm chi mà dzữ dzậy!”
Sài Gòn là vậy đó, ít
nhất là từ cái nhìn của Tèo tôi. Sài Gòn dễ thương khôn tả, khoáng đạt và
bao dung, rộng rãi và hào phóng. Người Sài Gòn sống nhanh nhất nước, không
sợ cái mới, ghét cái lỗi thời, rất thực tế.
Còn ti tỉ nhiều đề tài
thú vị về Sài Gòn mà tôi không muốn đề cập vì lười là chính: cuộc sống sinh
viên học sinh Sài Gòn, các trò ma mãnh “cua ghệ” của bọn Tèo Sài Gòn, con trai
Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn, …
Tôi đã nghe rất nhiều
những lời nhận xét kiểu vơ đũa cả nắm: con trai Sài Gòn thế này, con gái Sài
Gòn thế kia, dân Sài Gòn thế nọ… Càng nghe càng thấy buồn cười vì đa số những
người nói mấy câu đó không phải là Người Sài Gòn hoặc chưa bao giờ thật sự sống
ở Sài Gòn.
Không hiểu có ai đó đọc
bài này xong thì có thay đổi cái nọ cái kia trong nhận thức của họ không? Hy
vọng nhỏ nhoi của tôi là những thay đổi, nếu có, là theo hướng tốt hơn.
Riêng tôi thì tôi vẫn nhớ
ray rứt cái ngõ nhỏ xôn xao ấy…
St
No comments:
Post a Comment