_______________________________
From Hoài Niệm Sài Gòn Xưa Face Book
Toi biết anh sau ngày Sài Gòn sụp đổ chừng vài tháng, khi mà mấy ông thầy bị sàng lọc và đuổi ra khỏi trường mà không cần biết lý do, để đưa những tên cán bộ chính trị của “Đại học Pắc Pó” từ miền Bắc vào giảng dạy. Cộng Sản là thảm họa của cả miền Nam kể từ dạo ấy và đối với riêng anh việc bị đuổi ra khỏi trường Văn Khoa là một biến cố đau buồn nhất trong đời, nó thường xuyên ám ảnh đến cả giấc ngủ đầy ác mộng của anh sau này. Anh là bạn thân của ông Thầy dạy tôi thời Trung học, hai người bạn thất nghiệp đi lang thang và ghé vào căn phòng trọ của cô học trò nhỏ.
Cả
thầy lẫn trò đều xác xơ đến tội nghiệp. Tôi loay hoay nấu cơm bằng cái nồi nhỏ
xíu với chút rau luộc và cái trứng vịt dầm nước mắm. Buổi cơm đạm bạc nhưng
chân tình. Tôi ấm ức kể cho Thầy nghe những bực bội trong cuộc sống mới mà tôi
phải chịu đựng, những bất mãn hậm hực trong chế độ XHCN nói một đàng làm một nẻo.
Tức mà không biết nói với ai, tôi viết nhật ký và in roneo cả xấp, không biết để
làm gì nữa nhưng chắc cũng đỡ buồn đôi chút. Thời buổi này biết tin ai bây giờ
ngoài Thầy, tôi không có dịp học với anh dù nửa chữ, nhưng tôi kính anh như thầy
mình. Tôi đưa bản nháp cuốn nhật ký cho hai ông, coi như có người để chia sẻ
tâm sự. Năm 1978, cuốn nhật ký được một người thân lén chuyển qua Mỹ, và được
in làm nhiều kỳ trong bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và đầu
năm 1979 tôi vào tù, tôi từng nghĩ chuyện tới đó chấm hết. Thời gian như cuồng
phong phẩn nộ cuốn phăng mọi thứ. Mất hút trong mưa giông là những dề lục bình
tuổi thơ mơ mộng của bạn bè tôi, dật dờ rác rưởi trong chế độ mà “đôi dép râu
làm sầu tuổi trẻ, nón tai bèo dẫm nát mộng đời trai”, gió đưa gió đẩy không về
rẫy Kinh Tế Mới thì cũng ra khơi vượt biển tìm Tự Do. Thời điểm sôi bỏng lúc đó
ai cũng muốn đi, dù biết chắc rủi ro phía trước. Cuộc sống bức bách trong thời
gian đầu khiến anh không thể chịu đựng nổi, anh dẫn vợ con ra khơi trên chiếc
ghe chông chênh túm húm phó thác tánh mạng cho Trời. Tôi chọn sự ở lại để cùng
chồng mưu toan “bẻ gậy chống trời”. Mọi việc không thành, cả nhà bị bắt, chồng
tôi bị tuyên án Tử Hình, tôi chôn tuổi trẻ của mình hơn 10 năm trong lao tù Cộng
Sản. Thằng con trai mới hơn một tuổi cũng bị vạ lây vướng vòng lao lý đến độ tật
nguyền. Câu chuyện đau thương và trải dài biết bao khốn khổ bất hạnh trong suốt
những năm tháng buồn hiu đó. Cuối cùng thì tôi cũng ra tù, con trai tôi được một
tổ chức nhân đạo bên Thụy Sĩ mang ra khỏi trại giam trước đó vài năm. Sự giải
thoát chậm trễ đã khiến nó tàn tật suốt đời, chính điều này đã làm tôi đau đớn
ân hận mãi không nguôi. Phần anh, sau chuyến vượt biển thành công, chiếc ghe
mong manh tấp vô một đảo nào đó bên Indo chờ ngày qua Mỹ định cư. Giống như định
mệnh được báo trước, những ngày trong trại tỵ nạn, tạp chí Việt Nam Hải Ngoại
tình cờ lọt vào tay anh và những đoạn nhật ký rời rạc trong đó khiến anh thảng
thốt vì anh đã biết tác giả là ai, anh đã từng đọc nó bằng bản roneo nhòe mực,
và anh đã đốt nó trước khi xuống tàu ra đi. Anh chọn sự bỏ cuộc và cô học trò
chọn sự ở lại để đối đầu với cả một chế độ. Sau này, anh thường nói với các bạn
là tuổi trẻ của cô ta thật dũng cảm, anh đã không làm được điều đó. Có cái gì
như ân hận ray rứt khiến anh bồn chồn trong bụng. Vài năm sau, khi cuộc sống tạm
ổn định anh gọi về Sài gòn gặp người bạn cũ để hỏi thăm tin tức về "con nhỏ
năm xưa". Thầy tôi cũng chỉ có thể nói lại với anh điều ông đã nghe loáng
thoáng trong đám học trò “...hình như nó bị bắt và chết trong tù.” Nhưng bầm dập
tù đày không làm tôi gục ngã. Tôi sống sót để trở về với bao tang thương mất mát
không cách gì bù đắp. Ra trại, trở lại cuộc sống bình thường nhưng không yên ổn,
cơm áo mưu sinh vất vả, thường xuyên đối mặt với những kỳ thị hoạnh họe của
chính quyền địa phương, với cái lý lịch tăm tối tù tội trong quá khứ khiến tôi
thật sự mệt mỏi. Trong một lần đi họp trường xưa bạn cũ, tôi đến chào Thầy. Ông
ngỡ ngàng nhận ra “con nhỏ học trò” thuở nào và buột miệng, “Em còn sống hả
Ánh?” Và ông hỏi, “Em còn nhớ Thầy S không? Nó cũng hay về thăm tôi. Có lần nó
hỏi thăm em, tôi nói em chết rồi, nó buồn xo...” Mấy chục năm qua rồi, gặp anh
một lần như thoáng gió, có gì đâu mà nhớ. Tôi thời đó hừng hực tuổi hai mươi,
còn anh có vợ 4 con bộn bề trăm nỗi. Với anh, cái buồn xo nếu có chắc cũng chỉ
là tội nghiệp đứa học trò lận đận mà thôi! Trong mùa hè nào đó, tôi nhận được
cú phone lạ. “Thầy S. đây, con có nhớ thầy không?” Phản ứng rất tự nhiên tôi “dạ
- không” gọn lỏn. Bên kia đầu dây ngập ngừng một chút, “Ờ hôm nào Thầy trò mình
gặp nhau nhé”. Cũng không có gì bất ngờ luống cuống. Hai ông thầy lại đến thăm
cô học trò đã già hơn xưa sau hai mươi mấy năm không liên lạc. Lại thêm một bữa
cơm thân tình nhưng tươm tất hơn trước, lại những chuyện kể đứt khúc như cuốn
phim buồn, thật tình tôi muốn quên đi quá khứ đau thương. Ra về anh ghi vội cho
tôi địa chỉ eMail để “Thầy trò liên lạc nhau,” và tôi vẫn kính cẩn “Thưa Thầy”
mặc dù tới bấy giờ Thầy vẫn chưa dạy tôi cách dùng email để viết... thư tình.
Thời đó, có cái computer trong nhà là một mơ ước của tôi. Anh đâu biết mỗi lần
trả lời email của anh, tôi phải chạy hàng mấy cây số mới tới chỗ dịch vụ
Internet, loay hoay tự học mổ cò từng chữ. Rồi thư qua thư lại, lúc đầu chỉ là
những chia sẻ trong cuộc sống ở hai bờ đại dương xa lắc. Anh còn đi dạy, lũ học
trò tiểu học dễ thương. Các con đã lớn có cuộc sống riêng, vợ anh ly dị đã lâu.
Anh ở một mình trong căn nhà rộng vắng vào ra cô đơn lặng lẽ, cơm nước tự nấu bữa
sống bữa chín. Còn tôi làm công nhân trong một xưởng gỗ tư nhân, mỗi ngày đạp
xe hì hục trên xa lộ nắng cháy mà không biết tai nạn chết chóc xảy ra lúc nào.
Không có bằng Đại Học thì chỉ làm công nhân suốt đời, tôi nghĩ vậy mà cố gắng
ghi tên học lại. Rồi mấy năm đèn sách vất vả cũng qua đi. Khi anh gặp tôi thì mọi
việc có vẻ như ổn định, tôi đã tự đứng dậy được trên đôi chân của mình. Email
qua lại cả hai năm trời, anh gọi phone cho tôi thường xuyên hơn, thân thiết hơn
và không biết từ chữ “Thầy” chuyển qua chữ “Anh” lúc nào mà tự nhiên chúng tôi
không còn thấy khoảng cách hàng mươi ngàn cây số giữa Mỹ và Sàigòn xa xôi mút
chỉ nữa, những lá thư tình chất đầy ngăn kéo đã kết nối đôi bờ. Mùa hè 2004,
Anh quyết định bay về nói chuyện kết hôn. Má tôi im lặng một hồi mới nói “Già rồi
ở vậy cho rảnh.” Nhưng nói là nói vậy thôi, Má sợ tôi bước thêm bước nữa rồi khổ.
Nhưng Má ơi, tử vi nói con hết cơn bĩ cực rồi. Tôi chợt nhìn xuống chân “ông rể”
tương lai của Má, ai đời buổi ra mắt nhà vợ đầu tiên mà anh mang vớ chiếc xanh
chiếc xám bê bối thấy mà thương, mới biết anh chàng đã làm mềm lòng trái tim tưởng
đã hóa thạch của tôi từ những điều nhỏ nhặt. Vậy đó, tôi làm cô dâu ở tuổi 50,
trong chiếc áo dài đơn sơ giản dị, bạn bè hai bên chừng vài bàn, buổi tiệc nhỏ
đầy ấm cúng, ai cũng
chúc mừng
cho
hạnh phúc muộn màng nhưng rạng rỡ của tôi, lối xóm bàn tán “cô ta hên ghê có chồng
Việt kiều về cưới”. Anh nắm tay tôi ấm áp dỗ dành, tôi nghĩ mình thật hạnh phúc
và bình yên khi có anh bên cạnh. Sau ngày cưới, thấy không thể nấn ná trong cái
xã hội đầy rẫy sự bất an ngang ngược từng ngày, anh quyết định mang tôi đi xa
hơn về miền đất hứa... Ngày tôi lên máy bay rời Sàigòn cũng vào mùa hè, tháng 5
và những chùm phượng đỏ rưng rưng ướt đẫm trong cơn mưa đầu mùa. Tôi biết mình
đã mất Quê Hương từ cái ngày 30/4/1975 đáng nguyền rủa ấy, nhưng lần ra đi này
mới thật sự thấy thấm nỗi chia ly. Biết bao người đã bỏ nước ra đi và chết tức
tưởi trên biển cả, còn tôi may mắn hơn triệu triệu người khi vượt biển trên
chuyến bay American Airlines, để đến một nơi mà mình biết chắc là có Tự Do Hạnh
Phúc thật sự chứ không phải thứ Tự do được rêu rao bịp bợm gian trá trong cái gọi
là CNXH. Qua rồi những bão tố gian nan, những cay nghiệt khốn khổ trong cuộc sống
tù đày của ba mươi năm trước. Tôi khép lại quá khứ nhọc nhằn, lau khô những giọt
nước mắt bi thảm để nắm tay anh đứng dậy. Cuộc sống vốn ngắn ngủi cho những ai
bi quan, tôi nghĩ mình đang hướng về phía mặt trời. Như cuốn tiểu thuyết có hậu
ở trang cuối, tôi cám ơn anh đã viết Tình Yêu bằng chữ hoa trân trọng cho những
năm tháng còn lại của chúng tôi. Hạnh Phúc thật sự chỉ có trong trái tim rộng
lượng, chân tình. Cám ơn anh, cám ơn nước Mỹ đã dung chứa thêm một người tị nạn
khốn khổ như tôi. Chào một ngày mới bắt đầu trên quê hương mà bao người mơ ước
được đặt chân tới. “America Dream.”
Tháng
8/2018
Trần
Ngọc Ánh
1 comment:
Một câu chuyện cảm động chan chứa tình người
Một tình yêu chân thật dù cách biệt đôi bờ xa xôi
Nhưng không ngăn được hai trái tim đồng nhịp
Mặt trời lên mang ánh sáng làm ấm lòng người
Post a Comment