Trước Thềm Năm Mới
Kính Chúc Quí Thân Hữu và Bửu Quyến
TÂN NIÊN 2022, AN BÌNH HẠNH PHÚC
*******************************************************************************
Mời thưởng thức Trà Đầu Năm Mới và đọc chuyện hồi ký xưa
********************************************************************************
TRÀ THIỀN Thơ Trần Quốc Bảo
TRÀ THIỀN
Trà rót đầy ly, ngồi tịnh thiền (a)
Nhìn làn hơi khói nhẹ bay lên
Khơi tâm hàn sĩ, nhân duyên quán (b)
Trí huệ phiêu bồng, tới cõi tiên!
Vị Trà thanh khiết, thật vô lường
Thấm giọng, mùi thơm tỏa vấn vương
Thơm tự tâm trà, (nơi chẳng thấy!) (c)
Ngẫm như trời đất dưỡng sinh ta.
Uống trà, mong có người tri kỷ,
Như Tử Kỳ, xưa gặp Bá Nha.
Ly ngọc ánh lên, một niệm suy
Mỵ Nương nhìn thấy bóng Trương Chi
Phút giây chợt quán điều chân mỹ
Ô kìa! ... hình bóng thật tinh vi
Bao la vũ trụ, nằm trong đó!
Tận đáy lòng người, nào khác chi!
Quán triệt nội tâm, Thiền giúp ta
Vun bồi thiện đức, diệt tư tà
An nhiên tự tại, lòng thanh thản,
Mở rộng vòng tay, sống vị tha.
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Địa chỉ điện thư của tác giả:
Chuyện "THẦN BÒBOUL"
Tượng Chúa Hài Ðồng Ban Nhiều Ơn Lạ
-- Trần Quốc Bảo --
Ðể chuẩn bị cho cuộc thăm viếng Thái Lan của bà Rosalynn Carter, - phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, - vào đầu tháng 11 năm 1979, Bộ Ngoại Giao và An Ninh Mỹ đã phải âm thầm hoạt động trước nhiều tháng trờiMục tiêu của cuộc viếng thăm này là bà Rosalynn Carter muốn đích thân quan sát tìm hiểu về thảm cảnh tại các Trại Tị Nạn trên đất Thái Lan, điều mà báo chí và các hãng thông tấn, truyền hình... đã nhiều lần tường thuật như là một vết thương đại thảm khốc do Cộng sản gây ra cho lịch sử nhân loại vào thời bấy giờ.
Chắc chắn ông Carter, vị
Tổng Thống mà nụ cười luôn luôn đậu trên môi, một lúc nào đó đã phải chau mày,
suy tư về thảm họa kinh hoàng của hàng trăm ngàn người đang sống tại các trại
tị nạn Ðông Nam Á. Không một bản tường
thuật nào sẽ sống động và thành thật hơn những nhận xét của chính vợ ông, bà
Rosalynn.
Vậy nên nhiệm vụ của 14
người trong “Phái đoàn tiền sát” được cử qua Thái Lan đầu tháng 10-1979 thực là
quan trọng. Phái đoàn sẽ đến Thái Lan
như những người du lịch, sẽ tìm hiểu và ghi nhận trước tất cả mọi khía cạnh của
vấn đề; một bản phúc trình tỉ mỉ về tị nạn sẽ được thiết lập với những nhận xét
và đề nghị thật chuẩn xác, để cuộc tới thăm của bà Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ sẽ
chỉ là duyệt lại các điều mà bà đã biết từ trước.
Riêng tôi, một trong 14
nhân viên của phái đoàn tiền sát, tôi hoàn toàn không hay biết mảy may gì về
mục tiêu, mục đích của cuộc ra đi này.
Tôi lại cũng mù tịt về mọi lãnh vực ngoại giao và an ninh của Mỹ. Thế mà tôi lại được đi trong phái đoàn, điều
mà chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Trong
14 người, thì 11 là Mỹ chính hiệu “con nai trắng”, còn 3 ngoại kiều là một cô
Cam-bốt, một giáo sư Thái Lan và tôi là
Việt Nam.
Sở dĩ có tên tôi là bởi một sự bất ngờ rất
tếu. Tôi có anh bạn trong “Hội Nhà Thờ
Bảo Trợ”, tên John, anh này là cựu sĩ quan, trước từng ở Việt Nam hai
năm, làm cố vấn cho đơn vị tôi. Ngẫu
nhiên nay gặp lại nhau, anh rất khoái tôi.
Thường thường tụi tôi có các buổi họp mặt weekend là có John. Anh ta cũng ngồi xếp bằng tròn quanh mâm
nhậu, bóc lon la-de và nốc một hơi trăm phần trăm y chang như các tay tổ trong
băng độc thân vậy. John nói được một ít
tiếng Việt, ăn được nước mắm, khoái món phở tái, chả giò ... và đôi khi chúng
tôi nhậu khan với nhau bằng khô mực nướng, củ kiệu, John cũng xáp vô nhai khô
mực ra rít lắm.
Bởi cái chỗ thân tình ấy
nên tụi tôi coi John như một người bạn chí thiết. Một lần đang cơn nhậu, John hỏi chúng tôi,
ngoài tiếng Mỹ có ai biết nói tiếng Lào không?
Tôi phét lác nhận là nói được và xổ ra một tràng tiếng Lào líu lo líu
lường... làm cho cả bọn cười bò. Thật
tình, tôi có học được một ít tiếng Lào trong thời gian hành quân Hạ Lào, lâu
không nói thì nay cũng đã quên nhiều, nói bậy bạ dỡn chơi thì được, chớ còn
phiên dịch thông ngôn thì không nổi.
Thế mà nửa tháng sau tôi
nhận được giấy mời lên Văn phòng Ngoại giao.
Người tiếp tôi chính là John. Anh
ta nói muốn dành cho tôi cơ hội để về thăm miền Ðông Nam Á trong nhiệm vụ tiền
sát như đã nói trên. Tôi thú thật với
John tôi quá kém về Lào ngữ. Nhưng anh
ta trấn tĩnh tôi rằng, có một nữ nhân viên Cam-bốt nói tiếng Lào giỏi sẽ giúp
tôi, và có thể phái đoàn cần tôi trong nhiệm vụ giao dịch tiếng Việt nữa.
Chúng tôi đã đến
Thái Lan như những du khách, và đã nhờ Hồng Thập Tự địa phương đưa đến các trại
Tạm cư Tị nạn. Hai trại lớn mà chúng tôi
đã ở lại nhiều ngày là trại U-thong (phía Tây Bắc cách Bangkok trên 300 dặm)
hiện khi đó có 36 ngàn người Lào tị nạn; và trại Sa-kaeo nằm trên quốc lộ số 8
cách Bangkok 650 dặm về phía Ðông, chứa tới 200 ngàn dân Căm-bốt tị nạn.
Có ai tưởng tượng
được (vào thời điểm năm 1979) chỉ ở một trại tạm cư
thôi mà con số những người tị nạn Căm-bốt đã lớn lao đến thế không? Hàng trăm ngàn người đó đang sống vô cùng
thiếu thốn, đói khổ và bệnh tật, ở chui rúc trong các tàng cây, những lều lá
xiêu vẹo mà họ gọi là cái nhà. Thiếu
thực phẩm, thuốc men, quần áo. – Một vài hình ảnh khiến ta có thể tưởng như lớp
người đó đang sống ở thời thượng cổ, thời đại sống trong hang hốc, ăn lông, ở
lỗ. Sau này khi bà Rosalynn Carter đến
viếng thăm đã phải thốt lên: “Thật quả
là thê thảm, những cảnh tượng này tôi chưa hề bao giờ thấy như vậy, đã làm cho
tôi xúc động kinh hoàng.” (“It’s like
nothing I ‘ve ever seen, it’s emotionally overwhelming”).
Nếu muốn viết về
chuyến đi Thái Lan của tôi thì sẽ có một chuyện dài, nhưng tôi không thể đưa
lên báo bản phúc trình chỉ dành riêng cho vị Ðệ Nhất Phu Nhân đọc. Ở đây, tôi muốn kể lại một câu chuyện nhỏ-
một kỷ niệm mà mãi mãi tôi không thể quên.
Buổi chiều hôm
đó, sau những giờ đã làm việc khá mệt mỏi, chúng tôi chia nhau bánh mì và thịt
hộp để ăn bữa tối, Saleng (cô gái Căm-bốt trong phái đoàn) gọi tôi:
- Anh có muốn đi coi “Ông
Thần Con Nít” không?
Tôi vừa nhai bánh vừa
cười, hỏi đùa:
- Có Ông Thần Con Nít
hả? Vậy Saleng làm ơn bồng ông Thần
Bế-by ấy tới đây, tụi mình chụp hình phỏng vấn, chớ đi nữa thì... mệt quá rồi.
Saleng nghiêm sắc
mặt:
- Anh chớ nói dỡn, Thần
Con Nít thiêng lắm, Thần đã cứu nhiều người ta và đã đưa họ đến đây tị nạn.
Tôi hỏi một hơi:
- Sao cô biết? Thần con
nít là Ông Thần gì ? ở Ðâu? Cứu ai? Chuyện đầu đuôi ra sao?
Saleng liếc xéo
tôi:
- Bộ anh muốn ghi vô biên
bản phúc trình hả? Muốn biết thì đi! Đi
tôi dẫn tới cho coi.
Tôi uống cạn ly
cà phê rồi ngoắc John cùng đi theo.
Chúng tôi lên một ngọn đồi nhỏ, chung quanh toàn là dân di tản Căm-bốt ở
chen chúc dưới các lùm cây tàng lá.
Những cảnh sống cơ cực hiện ra trước mắt trong suốt mấy ngày nay đã làm
chúng tôi nhìn quen rồi. Các em nhỏ,
phần lớn là ở trần truồng, gầy gò, xanh xao và bệnh hoạn. Các ông già bà cả ngồi trầm lặng như những
pho tượng. Nhiều cặp mắt lo âu nhìn về phía
chúng tôi, không biết họ đang nghĩ gì.
Nhưng có điều chắc chắn là nếu ai bảo họ trở lại với quê hương Cộng sản
của họ thì họ lắc đầu cương quyết phản đối ngay.
Saleng dừng lại ở
đỉnh đồi – nơi có những đá lớn chồng chất – trên một tảng đá, tôi thấy có bầy
biện như một bàn thờ, cắm nhiều cây nhang, có một cặp nến đỏ và mảnh vải trắng
viết chữ Miên chằng chịt như một đạo bùa.
Một bầy trẻ con
chừng 20 đứa ốm o đang cầu kinh và ca hát chung quanh. Vài người lớn thấy chúng tôi, rê lại gần đứng
nhìn. Ðến gần bàn thờ, tôi và John đã
ngạc nhiên khi nhận ra vị “Thần Con Nít” mà Saleng đặt tên cho, chính là tượng
“Chúa Hài Ðồng nằm trong máng cỏ”. Tượng
bằng thạch cao lớn cỡ bằng quyển tự điển, một góc bị bể nên bàn chân Chúa mất
một nửa.
Rất tự nhiên, John
và tôi cùng qùy gối xuống cạnh những em bé trần truồng. Chúng tôi làm dấu Thánh Giá. John hát lên một bài ca Sinh Nhật bằng tiếng
Mỹ, tôi cũng ca tiếp bài “Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời...” Cử chỉ cung kính của chúng tôi trước vị Thần
Con Nít đã phút chốc gây cảm tình với các em bé và bà con cô bác tị nạn
Căm-bốt. Số đông đã bu lại quanh chúng
tôi có tới năm sáu chục người. Họ nói
chuyện ồn ào, và Saleng làm nhiệm vụ thông dịch cho chúng tôi hiểu. Trong đám đông đó, Saleng dẫn tới giới thiệu với
chúng tôi một bà già tên Lam-Pranak và con gái bà, bé Bòboul. Câu chuyện ly kỳ “Thần Bò-Boul” đã sẩy tới
cho hai mẹ con bà, đầu đuôi thế này:
Ông Lam-Pranak,
vị đại úy thời Lon-Nol, bị Miên cộng hạ sát năm 1975. Hai đứa con trai của ông đã bị trói tay chân,
ném vô lửa thiêu sống, trước mắt ông, trước lúc chúng bắn ông. Vợ ông và 4 đứa con khác trốn về tỉnh Kompong
Kdey, một năm sau bị phát giác và cũng bị bắt.
Miên cộng nhốt năm mẹ con bà Pranak cùng với khoảng 400 người khác thuộc
“chế độ cũ” trong một Nhà Thờ Chánh Tòa đổ nát ở tỉnh nhỏ Khum Samrong. Chính tại nơi đó, con gái út của bà, em bé
Bòboul, đã tìm thấy tượng Chúa Giêsu Hài Ðồng nằm trong máng cỏ. Thoạt đầu, em chỉ thấy đẹp và muốn giữ chơi
như một búp-bê. Nhưng rồi bà mẹ em đã
nghiệm thấy dường như có một uy quyền, một phép lạ nào đó ẩn tàng trong Búp-bê
Thần này. Cứ mỗi lần Bòboul bị đau ốm,
mà em được ôm lấy Búp-bê Thần thì em liền được khỏi bịnh. Rồi nhiều em nhỏ khác bị nhốt trong Nhà Thờ
đau ốm cũng đã được ơn cứu chữa ấy. Chí
đến các người lớn bệnh hoạn cũng đã được khỏi khi cầu xin Búp-bê Thần; và lòng
sùng kính tôn thờ tự nhiên dâng lên.
Trước con mắt nhòm ngó dữ dằn của bọn lính Miên cộng, những người tù
khốn khổ trong Nhà Thờ đã không dám lập nên một bàn Thờ cho Vị “Chúa Con Nít”
của họ. Ðền đài của Chúa Giêsu Hài Ðồng
nơi đây chính là cái túi vải rách rưới đeo trên lưng em bé Bòboul, một đứa trẻ
gầy gò bẩn thỉu. Ðến nỗi chính danh hiệu
cao cả của Chúa cũng chẳng ai biết nữa.
Ðoàn người tù tội đã dùng ngay tên em bé để gọi Chúa Giêsu Hài Ðồng, bây
giờ tên Ngài là “Thần Bòboul”.
Nhiều đêm, cửa
Nhà Thờ mở ra, những họng súng chĩa vào, vài tên Miên cộng thò đầu vô gọi tên
một số người. Những người bị gọi đi
trong đêm sẽ không bao giờ trở lại. Họ
đến quỳ gối bên em bé Bòboul, hôn tượng Chúa Giêsu Hài Ðồng:
- Lậy Thần của Bòboul,
bây giờ con sắp đi vào cõi chết, con muốn khi chết đi được Thần của Bòboul
thương con, đem con về cõi Trời với Thần!
Cầu nguyện xong,
họ hôn em Bòboul và ra đi vĩnh biệt, trong khi đó Bòboul vẫn ngủ say sưa không
biết gì cả. Số tù nhân vô tội vơi xuống lần lần.
Một đêm nọ, bà
Pranak bị gọi tên. Bà choáng người như
bị sét đánh, gọi cả bốn con dậy, mẹ con ôm lấy nhau khóc mướt rồi bà cầu
nguyện:
- Lậy Thần của Bòboul,
xin cứu con, xin cho con được sống với bốn đứa nhỏ này, cha nó đã bị bắn, hai
anh nó đã bị đốt lửa; xin Thần hãy cứu con để chúng nó còn có mẹ, và để mẹ con
chúng con suốt đời thờ lạy Thần.
Bà hôn các con
rồi ra đi trong đêm tối theo lũ Miên cộng...
Chừng hơn 2 tiếng
đồng hồ sau, cánh cửa hậu Nhà Thờ bỗng hé mở.
Bà Pranak len lén bò vào. Bà thì
thào với các con:
- Mẹ và nhiều người bị
đẩy xuống một cái hố, tụi nó xả súng bắn càn rồi lấp đất lên, và bỏ đi. Mẹ không bị trúng đạn, moi đất chui lên được
về đây với các con. Ðúng là Thần của
Bòboul đã cứu mẹ!
Năm mẹ con lại ôm
nhau khóc... và tạ ơn Thần. - Việc bà thoát chết, mò mẫm đêm khuya trở lại Nhà
Thờ (đúng ra là nhà tù), cũng như việc lính gác ngủ vùi và cửa Nhà Thờ hé mở,
cho đến bây giờ, bà Pranak vẫn không hiểu tại sao được như vậy. Bà chỉ một mực
tin rằng đó chính là Thần Bò-Boul ra ơn cứu mạng
Ngày chế độ
Pol-Pot bị lật đổ, bọn lính canh tù trước khi tháo chạy đã thảy đại vô Nhà Thờ
3 trái lựu đạn. Bé Bòboul thất kinh, cầm
tượng giơ ra ngăn cản. Lạ thay, cả 3 qủa
đạn đều tịt ngòi lăn long lóc trên nền Nhà Thờ.
Một người trong toán tù đã liều mình nhặt vứt ra ngoài. Khi qủa lựu đạn cuối cùng ném ra khỏi cửa sổ,
cả 3 đã phát nổ dữ dội khoét thủng một lỗ ở chân tường, và do đó đoàn tù đã
thoát ra rồi tản mác, mạnh ai nấy chạy trốn vượt biên giới qua Thái Lan tị nạn.
Bé Bòboul lạc gia
đình, một mình chạy nhủi ở trong rừng, hết lòng cầu xin, hai ngày sau thì gặp
lại được mẹ và anh em như cũ.
Khi năm mẹ con
đắt díu nhau vượt biên tại Ban Nong Pru chính là chỗ quân đội hai nước canh
phòng biên giới, đang ghìm nhau rất cẩn mật.
Bé Bòboul cầm tượng Chúa đi trước dẫn đầu cho gia đình đi ngang qua hai
trạm lính canh gác, lạ thay, thấy lính Miên-cộng và lính gác Thái đều ôm súng
ngủ khì. Câu chuyện thuật lại tưởng như
khôi hài và hoang đường vậy.
John tỏ ra đặc
biệt chú trọng đến mọi chi tiết của câu chuyện.
– Anh hỏi và Saleng thông ngôn:
- Cho đến nay, Chúa Hài
Ðồng còn tiếp tục làm phép lạ không?
Bà Pranak trả lời:
- Không! không phải phép
lạ, Thần của Bòboul không làm phép lạ ra lửa, ra ánh sáng đâu. Thần chỉ cứu người thôi. Ai cầu xin Thần sẽ được, nhưng phải ở hiền, ở
tốt, đừng có dữ dằn, ai yêu thương người ta, Thần của Bòboul mới cho ơn. Thần còn cho ơn nhiều nhiều, phải tin Thần
thì mới được chứ!.
Tôi ngạc nhiên
đến sững sờ nhìn bà Pranak, có phải bà vừa đọc một đoạn Thánh Kinh nào đó cho
tôi nghe không? Tôi nhìn kỹ mặt bà,
gương mặt cằn cỗi xám xịt, hàm răng vàng khè, cặp mắt đục và mệt mỏi. Bà quê kệch, xấu xí và rách rưới hôi hám nữa,
nhưng tâm hồn bà dường như tràn ngập Niềm Tin và sự vui mừng.
Bốn đứa nhỏ của
bà cùng với lũ trẻ tị nạn khác đang xúm quanh John nhai kẹo cao-su. John nhờ Saleng giảng dịch cho chúng hiểu sơ
lược về Chúa Cứu Thế, mà bức tượng của Bòboul chính là Thánh tượng Ngài. Thật mà nói, tôi thấy lũ nhỏ chăm chú vào
việc nhai kẹo nhiều hơn là lắng nghe câu chuyện Thánh Sử.
Khi chúng tôi từ
biệt bà con tị nạn để về lều, John chưa kịp nói lời Good Night thì một thanh niên chạy tới rối
rít lên:
- Ðem Thần của Bòboul tới
mau, xin cứu vợ tôi, nó sắp đẻ rồi, chẳng có cô mụ bác sĩ gì ráo, khéo nó chết
mất! Lạy Thần, xin cho vợ con của con
được sống.
Tượng Chúa Hài
Ðồng được rước đi tức khắc. Chúng tôi
cũng cấp tốc trở về lều. Khi John trở
lại với một bác sĩ thì mọi sự đã xong.
Một em bé tị nạn đã sinh ra bằng yên,
Người sản phụ đang thiu thiu ngủ, và người chồng đang quỳ dưới đất chắp
tay lạy Chúa Hài Ðồng như tế sao.
Bà Rosalynn
Carter, sau này khi đến thăm trại, đã bồng đứa bé đó trên tay và ứa lệ nói
rằng: “I want to go home as fast as I
can and mobilize people and do all we can to help the people here”. (Tôi muốn trở về Mỹ càng sớm càng tốt để vận
động dân chúng làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được để giúp dân chúng
nơi đây.)
Trần Quốc Bảo
Richmond,
Virginia
Địa chỉ điện thư của Tác Giả:
quocbao_30@yahoo.com
No comments:
Post a Comment