Phan Quân
Nguồn : Phù Sa
RU, Kim Thúy, Nxb Liana Levi, 2010. |
Lời dẫn: Từ lớp người Việt Nam di tản đầu tiên hồi 1975 đến nay đã ba mươi lăm năm, trải qua một thế hệ. Nên chi việc vận dụng tiếng Việt, nhứt là chữ viết, đã lần hồi phai lạt. Thật là đáng tiếc, nếu ta cảm nhận trong tinh thần "Tiếng Việt còn, người Việt còn", nhưng làm sao bây giờ, vì nhu cầu cuộc sống đã bắt buộc người ta phải sống thực tế và thực tiễn. Cho nên đã thấy xuất hiện nhiều cây viết ngoại gốc Việt giải bày cảm nghĩ của mình bằng ngôn ngữ chốn tạm dung. Có một vài tác giả đã tạo được tiếng vang trên làng văn trận bút quốc tế.
Ở đây chúng tôi xin chốt lại trường hợp của Kim Thúy, người Gia Nả Đại gốc Việt vừa cho ra mắt quyển sách tiếng Pháp tựa đề "RU" được giới phê bình văn học không hết lời ca ngợi. Sanh ra ở Việt Nam, vượt biển và đến Québec (Canada) năm lên mười. Xuất thân từ một gia đình quyền quý trước kia, phải đi tỵ nạn lưu vong, Kim Thúy làm đủ mọi ngành nghề - may thuê, ngồi caisse, dịch giả, nấu bếp và trạng sư - để kiếm sống và đã ghi những thăng trầm của đời mình, và của gia đình trong quyển sách mà Phù Sa đã đọc qua và tường trình lại dưới đây.
* * *
Quyển sách dày 143 trang, mà Kim Thúy đề tặng "Những người của quê hương", giống như cái "bình bông Việt Nam bằng tre sơn bóng đã bể nát qua một chuyến đi xa lơ xa lắc". Kim Thúy đã lắp ráp những mảnh vụn tản mát đó lại, một cách rời rạc chẳng cần thứ tự thời gian và đã ấp ủ trong thâm tâm trên ba chục năm qua.
Ngày nay, những kỷ niệm thân thương mà quái quỷ đó đã chín muồi, tự nó đã bộc bạch ra. Kỹ thuật trình bày quyển sách khá độc đáo, một ý nhỏ ở đoạn trước triển khai thành đoạn kế tiếp. Một mảnh chuyện gần như một chương sách, nhiều nhứt ba trang (110-112) và ít nhứt chỉ có ba hàng (143), nên rất phù hợp với lối kể chuyện tản mạn, chuyện nầy nhảy qua chuyện nọ của Kim Thúy.
Câu chuyện về một tuổi thơ tan tác ở quê nhà vì nạn cộng sản, về một thời niên thiếu được tạo dựng lại trên miền đất tỵ nạn lưu vong. Kim Thúy kể lại những chuyện đau thương qua những nét chấm phá, không bi thương hóa, không kể khổ, chẳng oán trách mà cũng không giận hờn. Tất cả được thể hiện với lễ độ, vốn là cốt cách của đức tánh Việt Nam. Có ai đó đã nói: "Người Việt Nam, gì cũng cười" nên câu chuyện của Kim Thúy cứ mang những nụ cười hiển hiện, che đậy những số phận hẫm hiu.
Quyển sách mang tựa ngắn gọn là "RU", được chính tác giả giải thích rằng bên tiếng Pháp được hiểu như "con suối nhỏ" và nghĩa bóng là "đổ nước mắt, đổ máu, tuôn tiền ra". Còn bên tiếng Việt thì chỉ ra "tiếng hát nho nhỏ để đưa em".
Kim Thúy cởi mở kể lại câu chuyện thầm kín của một cô gái, của một gia đình, của hàng xóm láng giềng bất chợt. Cả một ký ức sống động đầy nuớc mắt mặn đắng và máu đỏ ngầu, đầy những thất vọng chán chường và những bất ngờ khó tả. Một hồi ức chứa đựng những cuộc đời đôi khi rối rắm, bị tước đoạt và bị hạ nhục. Nhưng đó là những cuộc đời can đảm, thật sự hiền lành và lúc nào cũng đầy đủ can đảm để đứng vững.
Qua những dòng chữ của Kim Thúy, hình ảnh, hương sắc, cảm nghĩ, ý tưởng đều pha trộn, hòa lẫn nhau. Chán chường và hy vọng, những vết thương và những nụ hôn, miền tạm dung và đất nước xứ sở, dĩ vãng và hiện tại, cái cũ và cái mới, Sài Gòn và Montréal đều hòa quyện nhau. Thậm chí Kim Thúy còn coi như "chiến tranh và hòa bình thân thích" nhau.
Giọng văn của Kim Thúy không thấy giận hờn mà cũng không có vẻ lên lớp. Cũng chẳng thấy căm thù, thường là luận điệu của những kẻ lép vế. Trái lại, Kim Thúy có khả năng thích nghi kỳ lạ, một cái khiếu đón nhận cái hay cái lạ và dễ chấp nhận điều tốt đẹp. Có thể Kim Thúy đã hấp thụ đức tánh đó của người cha vì ông "Biết tận hưởng hiện tại coi như mình lúc nào cũng nhứt hạng, có một không hai, chẳng cần so sánh, cân nhắc gì hết".
Quyển sách là một thứ tự truyện của một cô gái Việt Nam, chào đời khi khói lửa tràn về thủ đô, rồi qua một cuộc thử thách ê chề khi cộng sản tiến chiếm thành phố. Thân phận liễu yếu chịu trận những vày vò của một chế độ tàn bạo, không xót thương, rồi cũng phải bỏ tất cả ra đi tìm chút tự do nhơn ái. Qua lối tự sự tâm tình đó dĩ nhiên có gắn liền với những suy nghĩ thâm thúy về chế độ và con người, về chiến tranh và hòa bình.
"Tôi chào đời giữa cuộc tổng công kích ngày Tết, những ngày đầu của năm Mậu Thân, có những tràng pháo dài thòn, treo trước cửa nhà nổ tung, kết âm cùng những tiếng cắc-bùm của súng tiểu liên.
Tôi sanh ra tại Sài Gòn, có pháo nổ tung ra ngàn mảnh, rơi rụng đỏ đất như những cánh hoa anh đào, hoặc giống như máu của hai triệu quân lính rải rác trên những phố thị hay thôn làng của một đất nước Việt Nam bị chia đôi.
Tôi sanh ra dưới bầu trời tràn ngập pháo bông, đầy dẫy những vòng hoa ngời sáng, có tên lửa và hỏa tiễn bay dọc ngang. Tôi ra đời là để thay thế những cuộc sống đã mất đi. Đời tôi có bổn phận phải nối nghiệp cuộc sống của mẹ tôi." (Trang 11)
Ông cố ngoại Kim Thúy là người Tàu chánh cống, gốc Tứ Xuyên, lang thang di cư vô Việt Nam năm mười tám tuổi, cưới vợ Việt và có tám người con. Phân nửa chọn quốc tịch Việt Nam, làm chánh khách và khoa học gia, số còn lại cứ tiếp tục là người Hoa, ăn nên làm ra nhờ làm chành gạo. Như vậy là gia đình phân đôi, giống như đất nước Việt Nam.
Cậu Hai Kim Thúy – theo mô tả của Kim Thúy thì Cậu Hai là hình dáng của Lý Quý Chung, bộ trưởng thông tin nội các Vũ Văn Mẫu - người anh cả trong gia đình, làm dân biểu thuộc nhóm thứ ba, trung lập, đứng giữa hai lằn đạn. Cậu Hai rất lả lướt, chịu chơi, giao du rộng rãi, nhứt là với phái đẹp. Mẹ Kim Thúy không tán thành lối sống của Cậu Hai, dẫu cho phải để Kim Thúy sinh hoạt cùng với Sao Mai, cô con gái của Cậu Hai.
"Cậu Chung, người anh cả của mẹ tôi, là gạch nối giữa hai nhóm văn hóa, hai phe chánh trị. [...] Cậu Hai là con trai trưởng trong gia đình, là dân biểu và trưởng khối đối lập. Cậu nằm trong chánh đảng của những người trí thức trẻ thuộc phe thứ ba, tự cho là đứng giữa hai lằn đạn." (T. 55)
Nhờ Cậu Hai, và vì sinh hoạt cùng với Sao Mai, chị em cô cậu, nên Kim Thúy tiếp xúc với xã hội văn minh, học đánh quần vợt ở Cercle Sportif Sài Gòn, một câu lạc bộ dành cho giới thượng lưu của thủ đô Nam Việt Nam. Hai vợ chồng Cậu Hai rất chịu mở tiếp tân tại nhà và đi vắng nhà luôn. Hai ông bà xài phí rất vung tay để cho con cháu làm quen với nhạc của Doors, Sylvie Vartan, Michel Sardou, Beatles, Cat Stevens... Trái ngược với gia đình Kim Thúy, không biết vì khiếp sợ hay muốn lấy điểm với nhà cầm quyền cộng sản mà Cậu Hai đi tố với nhà chức trách sở tại chuyện con mình vượt biên.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân cộng sản kéo vô Sài Gòn, chiếm cứ căn nhà của gia đình Kim Thúy, xây bức tường gạch ngăn đôi cho hai hộ. Một cho gia đình Kim Thúy và một cho đồn công an phường. Một năm sau, cộng sản chiếm luôn cả ngôi nhà, tống cổ gia đình Kim Thúy ra ngoài, sau khi đưa đến một đoàn kiểm kê tài sản xét nhà và niêm phong.
"Họ niêm phong tủ đựng nịt vú của bà tôi và các dì tôi, mà không ghi nội dung của cái tủ. Bấy giờ tôi nghĩ là tên kiểm kê kia bối rối, thắc mắc không lẽ những cô gái ngực tròn ngồi ở phòng khách kia mặc hết những thứ đồ ren nhập từ Paris kia à? Tôi cũng nghĩ là ông ta để trống, không liệt kê nội dung cái tủ là vì quá xúc động nên run tay không viết được. Nhưng tôi đã lầm, vì ông ta không biết công dụng của mấy cái xu-chiên kia. Theo ông ta thì nó giống cái vợt cà-phê của bà mẹ ở quê nhà. [...] Tôi nghe ông ta bàn luận với mấy tên kiểm kê khác ở dưới chưn cầu thang. Ông ta không hiểu tại sao gia đình tôi có quá nhiều vợt cà-phê như vậy? Mà tại sao vợt đôi? Phải chăng vì uống cà-phê phải có bạn cùng uống?" (T.38-39)
Thời buổi hòa bình xuất phát từ họng trọng pháo dĩ nhiên sản sanh ra vô số chuyện về người tốt việc tốt, anh hùng, vĩ nhơn. Những năm đầu chiến thắng, sách sử nhà trường không đủ trang để chứa chuyện anh hùng nên phải mượn những trang của sách toán. Học trò không còn học đếm, học làm toán với những đồ vật, hoa quả nữa, mà với xác quân thù hay số máy bay bị bắn rớt.
Lớp học trẻ con biến thành một trò chơi đếm lính miền Nam bị giết, bị bắt, bị cầm tù, một nơi vinh danh bộ đội và ca ngợi những chiến công hoành tráng và rực rỡ đầy màu sắc. Nhưng màu sắc chỉ được mô tả bằng chữ viết vì sách học không có tô màu và hình vẽ chỉ in toàn mực đen. Có lẽ người ta muốn cho học trò quên đi khía cạnh u buồn của cuộc sống "nay đã có độc lập, thống nhứt và tự do".
Bầu không khí cuộc sống quá ngột ngạt, người ta không chịu nổi lối cầm quyền của cộng sản. Cột đèn mà có chưn thì nó cũng đi vì không chấp nhận sống với chế độ. Một gia đình bị dồn ép đến mức cùng, như gia đình Kim Thúy, cũng không làm gì khác hơn được, đành phải vượt biển thôi.
"Chỉ có lúc ấy tôi mới thấy được tình yêu của bà mẹ ngồi đối diện tôi dưới khoang tàu, tay ẵm đứa bé đầu đầy ghẻ lở hôi hám. Tôi nhìn thấy hình ảnh đó suốt ngày đêm. Cái đèn bóng le heo treo trên cây đinh sét rọi sáng lờ mờ, lúc nào cũng như lúc nào. Dưới khoang tàu ngày cũng như đêm, chẳng có gì khác. Ánh sáng đơn điệu của cái đèn không cho chúng tôi thấy cái bao la của trời biển. Những người ngồi trên sàn tàu cho biết chẳng thấy lằn ranh của trời biển đâu hết, mọi nơi đều xanh biếc. Như vậy thì đâu rõ là mình đi lên trời hay chui xuống biển. Thiên đàng và địa ngục lẫn lộn trong khoang tàu. Thiên đàng hứa hẹn khúc quanh mới cho cuộc sống chúng tôi, một tương lai mới, một câu chuyện mới. Còn địa ngục là nỗi khiếp sợ của chúng tôi, sợ bọn cướp biển, sợ đói, sợ khát, sợ trúng độc vì ăn bánh thấm dầu máy, sợ không đứng lên được, sợ phải đi đái trong cái bô đỏ rồi chuyền tay đi, sợ bị cái đầu ghẻ của thằng bé kia lây lan, sợ không tới được đất liền, sợ không thấy mặt cha mẹ mình ngồi đâu đó trong bóng tối, giữa đám đông vài trăm người." (T. 13-14)
Nhờ "Anh Phi", con của bà hàng xóm lượm giùm hai ký lô ruởi vàng mà ba Kim Thúy liệng trong đống gạch vụn nhà bên cạnh, nên gia đình mới có phương tiện mướn tàu vượt biên. Một hành động hào hiệp phi thường của "Anh Phi" trong thời buổi đó. Chuẩn bị cho chuyến đi, ngoài việc giấu hột xoàn trong chiếc vòng tay rẻ tiền bằng nhựa, ba Kim Thúy đã thủ sẵn mấy viên Cyanure để đời đời ru ngủ toàn thể gia đình, như Công Chúa Ngủ Trong Rừng Mơ. Nhưng may quá, những viên thuốc ngủ đến vĩnh hằng đó vẫn còn nguyên. Vì may mắn thay, chung cuộc chiếc tàu vượt biển đó đã tới được đất liền.
"Chúng tôi chẳng biết được đâu là đâu. Chúng tôi đã tới được mảnh đất liền đầu tiên. Trong lúc tàu chúng tôi tiến vô bờ, có một người Á Đông, mặc quần cụt màu xanh da trời chạy đến. Ông ta luôn miệng biểu chúng tôi nhảy xuống nước và phá hủy chiếc tàu đi. Không biết có phải người Việt không? Chẳng lẽ tàu lại trở về Việt Nam sau bốn ngày linh đinh trên biển? Tôi nghĩ không ai thắc mắc vấn đề đó vì tất cả đều nhảy ùm xuống nước như quân lính đổ bộ. Người kia biến đi biệt trong lúc hỗn loạn. Không biết sao tôi cứ nhớ rõ hình ảnh của người đó chạy dưới nước, hai tay đưa lên trời, đấm trong khoảng không, la ó gì đó thật khẩn cấp mà gió đã thổi bạt đi, tôi chẳng nghe thấy gì. [...]
"Ai ở trên sàn tàu đều trông thấy. Nhưng chẳng ai dám quả quyết. Có lẽ đó là hồn mấy người chết đã trông thấy những chiếc tàu đã bị nhà cầm quyền địa phương đuổi ra khơi. Có thể đó là một hồn ma cảm thấy có bổn phận cứu rỗi để được lên cõi trên." (T. 104)
Như vậy là gia đình Kim Thúy sống sót qua chuyến vượt biển, tỵ nạn sơ khởi trên một hòn đảo Mã Lai, có khả năng chứa hai trăm mà phải nhận tới hai ngàn người. Đúng như Việt Nam ta thường nói "ăn nhiều, ở có bao nhiêu". Thôi thì đủ trăm đắng ngàn cay của cuộc sống trên đảo tỵ nạn giao thời. Sanh hoạt ở trại tạm cư trên đảo tệ lậu và nhàm chán đến đổi trẻ con thừa mứa thời gian để dòm ngó ruồi nhặn và dòi tửa ở các hố tiêu công cộng cho qua ngày.
Gian khổ mãi rồi cũng có ngày thấy được ngọn lửa le lói cuối đường hầm, là ngày mà phái đoàn Gia Nả Đại khám sức khỏe. Mặc dầu trên đảo có học tiếng Anh, nhưng làm gì có dịp để nói, để nghe mà biết có tiến triển hay không.
"Ông thầy thuốc tại nhiệm không có hỏi lấy tôi tiếng nào. Ông chỉ kéo thun lưng quần ra để xác nhận trai hay gái, thay gì hỏi: "Boy or girl?" Hai tiếng nầy thì tôi có biết. Tôi nghĩ là bản mặt của thằng con trai hay đứa con gái cỡ mười tuổi đều giống nhau vì quá ốm."
[...]
"Khi đến phi trường Mirabel (Montréal) nhìn qua cửa sổ máy bay thấy những bãi tuyết trắng xóa, tôi có cảm tưởng như bị lột trần, nếu không muốn nói là ở truồng. Mặc dầu có cái áo lạnh ngắn tay mua ở trại tỵ nạn Mã Lai trước khi đi Gia Nả Đại, mặc dầu có cái áo Chandail len màu nâu đan bằng tay của Việt Nam, tôi vẫn thấy như trần truồng. Trong máy bay cũng có nhiều người làm như tôi, đổ xô lại cửa sổ, miệng há hốc, váng dẻ sửng sờ. Sau một thời gian dài sống trong bóng tối, một cảnh trí trắng ngần và tinh khiết như vậy sao khỏi làm cho chúng tôi choáng người, lóa mắt và ngất ngây.
"Tôi ngây ngất với những tiếng nói lạ tai đón tiếp chúng tôi cũng như dáng vóc của tượng thủy tinh trên bàn đầy thức ăn đủ màu sắc. Tôi chẳng biết món ăn nào là món ăn nào, nhưng tôi biết rằng đây là một nơi đầy thú vui, một xứ sở thơ mộng. Tôi không nói được mà cũng chẳng nghe được gì hết, dẫu không phải câm mà cũng chẳng phải điếc. Tôi mất phương hướng hoàn toàn, không còn cái gì để có thể mơ tưởng, để có thể dự phóng trong tương lai, để có thể sống với hiện tại và trong hiện tại." (T. 8)
Trong thời kỳ sinh sống ở cõi tạm dung, Kim Thúy học hành nên người và làm đủ ngành nghề, trong khi ba mẹ Kim Thúy cam tâm sống một cuộc đời đảo lộn. Thầy thợ trước kia, bây giờ xuống làm lao công quét dọn, miễn có phương tiện cho con cái đi lên. Kim Thúy tiến lên trong đời sống theo hướng nhìn của cha mẹ về tương lai của các con, một hướng nhìn về "giấc mơ Bắc Mỹ". Không phải như hướng nhìn của những bậc cha mẹ khác, bị mất hút qua nhiều năm học tập cải tạo trong các trại, không phải là trại chiến tranh trong tình hình giặc giã, mà trại của hòa bình sau khi đã chấm dứt chiến tranh.
Tại Cantons-de-l'Est, một thị xã phía Đông Montréal, gia đình Kim Thúy được dân cư nơi tạm trú tiếp đón niềm nở và thân tình nên Kim Thúy coi họ như những "thiên sứ" đã để lại cho Kim Thúy nhiều kỷ niệm thân thương. "Tôi thường cảm nghĩ rằng chúng tôi không đủ chỗ để chứa những gì thiên hạ tặng."
Kim Thúy có cơ hội trở lại Hà Nội để làm việc, có dịp để so sánh cái quê hương ngày lên mười, khi Kim Thúy rời đất nước để ra đi tìm một vùng trời tự do, phóng khoáng và đầy tình người, với một nước Việt Nam gọi là đã độc lập, thống nhứt theo kiểu xã hội chủ nghĩa. Kim Thúy tự hỏi không biết những tên bộ đội chiếm nhà Kim Thúy hơn ba mươi năm về trước nay đã ra sao? Bao nhiêu vật đổi sao dời từ lúc họ xây bức tường gạch ngăn đôi căn nhà và đương nhiên cũng chia cắt gia đình Kim Thúy với quân cộng sản.
Kim Thúy trở lại Việt Nam làm việc với những người đã chủ trương xây tường ngăn cách để làm hại hàng trăm ngàn cuộc đời, có lẽ hàng triệu. Y như rằng đã có nhiều đổi thay từ khi chiến xa cộng quân tông cửa ngỏ Dinh Độc Lập đến nay. Vậy mà sẽ chẳng bao giờ có tường gạch ngăn đôi nhà Kim Thúy nữa.
"Ngày tôi đáo nhận nhiệm sở ở Hà Nội, tôi đi ngang qua căn nhà nhỏ tí tẹo, cửa cái trổ ra đường. Bên trong, một người đàn ông và một chị đàn bà xây tường để chia đôi căn nhà. Bức tường nhỏ lên cao lần, tới khi đụng trần nhà. Người thơ ký của tôi kể rằng hai anh em nhà đó không muốn sống chung. Bà mẹ chịu thua không khuyên can gì được, vì ba mươi năm về trước chính bà cũng đã làm vậy để chia rẻ kẻ thắng với người bại. Bà chết đi trong nhiệm kỳ ba năm của tôi ở Hà Nội. Chia gia tài cho con, bà cho thằng anh cái quạt máy không nút vặn và cô em, cái nút vặn mà không có quạt máy!" (T. 43)
Ba mươi năm sau, khi Kim Thúy đi Hà Nội làm việc, Sao Mai vẫn ở lại Việt Nam - trót làm con của một nhơn vật tiếng tăm khi cộng sản tiến chiếm Sài Gòn – đã trở thành một nữ doanh nhơn của thành phố. Sao Mai làm bánh bỏ mối cho những người có máu mặt các cấp bộ Đảng, mở quán bán cà-phê bằng bánh mì cũ nướng cháy, xay nát...
Ba mươi năm qua, Sao Mai đã bừng dậy như phượng hoàng sống lại từ tro cốt của nó, như Việt Nam từ bức màn tre, như cha mẹ của Kim Thúy từ những công ăn việc làm hẩm hiu để con cái chiếm được "giấc mơ Bắc Mỹ". Những bực tiền bối đã phá bỏ được lớp vỏ bên ngoài để vươn cánh bay caơ, đến tận những vùng trời xanh thẳm cho hậu duệ.
* * *
Kim Thúy đã tới được đỉnh cao văn học qua tác phẩm nầy, với những ý tưởng nối tiếp những người đi trước đã dấn thân vì Kim Thúy. Kim Thúy đã bước theo dấu vết của tiền bối như trong một giấc mơ gợi ý, trong đó hương thơm của hoa mẫu đơn hàm tiếu không phải chỉ là một mùi thơm, mà là một sự nẩy nở bung khơi, màu đỏ sậm của lá phong vào thu không còn là một màu đơn thuần nữa mà là một nét yêu kiều, một xứ sở không chỉ là một nơi chốn nào đó không thôi mà là một bài hát ru hời.
"Và một bàn tay đưa ra không còn là một cử chỉ suông, mà là một giây phút thương yêu, kéo dài đến giấc ngủ, đến lúc thức giấc, đến mỗi ngày" (143)
Ôi chiến tranh và hòa bình! Hai tình cảnh, hai lối sống tương phản nhau một cách ngược đời.
"Những ngày thơ ấu, tôi cứ tưởng chiến tranh và hòa bình là hai chữ phản nghĩa nhau. Vậy mà, tôi đã sống yên ấm trong lúc Việt Nam tràn ngập khói lửa, và tôi chỉ nếm mùi binh đao khi những người lính đã xếp cất súng ống. Tôi ngỡ chiến tranh và hòa bình là hai người bạn thân thiết nhau và chúng đang trêu ngươi chúng tôi. Hai thứ đó coi chúng tôi là kẻ thù tùy theo sở thích riêng tư, chẳng cần đếm xỉa gì ý nghĩa mà thiên hạ gán cho nó. [...] Mẹ tôi hay đọc cho tôi nghe câu châm ngôn được ghi trên bản đen năm lên tám ở Sài Gòn: "Đời là chiến trận, nếu buồn là thua". (22)
Kim Thúy cho rằng "RU" là quyển đầu của bộ ba trong dự tính.
"RU là câu chuyện về nguồn gốc của tôi, một tác phẩm xoay quanh cung cách làm sao để 'sống sót'. Quyển hai sẽ bàn đến cách 'sống' và quyển thứ ba nói về 'tình yêu'. Mình không thể nào yêu đương trong khi mình kiếm cách tồn tại, và cũng không yêu đương được trong lúc tìm con đường sinh sống."
* * *
Với mỗi một tác phẩm đầu tay mà Kim Thúy đã thành công rực rỡ nhờ có lối kể chuyện hiếm có và khác thường. Những câu chuyện ngộ nghĩnh, độc đáo, ý nhị, những tình huống éo le hay quái gở, được kể lại nửa bi thảm nửa khôi hài, vừa tầm thường vừa cao thượng. Kim Thúy viết như bà mẹ kể chuyện để ru con ngủ bên giường, đưa hồi ký vào một ngỏ lúc bông đùa, khi cần phải suy ngẫm.
Kim Thúy đã khéo chọn lựa những tình tiết để kể ra, đã lướt qua kỷ niệm đau thương của mình cũng như của gia đình mình bằng những bước đi văn vẻ, nhẹ nhàng, êm ru. Văn của Kim Thúy ghi lại cùng trong một lúc chiến tranh và hòa bình, thiên đàng và địa ngục, niềm vui sướng và lệ rơi lã chã. Với Kim Thúy, "Không có văn chương, làm sao mình nghe được tuyết tan, nghe được mầm non vươn lên và nghe được mây trời bước đi lang thang?" Đọc Kim Thúy, người đọc tưởng như mình là cánh bướm bay nhởn nhơ, lúc hút mật hoa này, lúc chỗ kia.
Thực trạng của người Việt tỵ nạn lưu vong không đơn giản như sự hiện diện của năm ba quán ăn Việt Nam trong thành phố, như vài ba bộ phim nổi tiếng của Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Nhìn quanh nhìn quẩn chẳng thấy đâu là bản sắc của mình. Việt Nam chăng, chẳng phải, mà Pháp, Mỹ, Đức, Úc,... chăng cũng đâu được! Nghĩ cho cùng thì họ chẳng có bản sắc nào hết, họ hoàn toàn thiếu gốc rễ ngọn nguồn, không còn ở Việt Nam xưa cũ mà cũng chẳng phải xuất phát từ đất nước tạm dung. Vậy là phải đi tìm, một hành trình săn lùng rất gian khổ và cam go. Chắc phải đến mấy thế hệ nữa, khi tất cả đều quên đi, lấy bản sắc của đất nước tạm dung, của môi trường hội nhập làm cái của chính mình. Vậy thôi!
Phan Quân
No comments:
Post a Comment