______________
Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt
ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào
khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong
khoảng thời gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng
Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe vận
tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến
các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có
đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên mảnh đất
Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn.
Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước Tòa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng
Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến
lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng
cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng
khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm còn có một
chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước Tòa Thị Chính. Không cần phải giỏi
ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc
và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của
người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh
tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia sông
Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam
hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần
xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của
chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc
mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn
hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài
bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng
là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm
đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn
nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những
lính miền Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu
quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp lại mảnh
đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau
thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ
không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của
người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham nhũng, lạm quyền, ám
sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm hình của vị
“nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc
gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính
líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được
đóng thùng từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi
Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà
cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và lớn lên
trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ,
Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đã phải trải qua con
đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết
vì viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị
giết ở Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi
ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên
thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom
Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc.
Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời
thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt
Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt
con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải
tại một quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu
trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng CSVN.
Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm
lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng
sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân
Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra
sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có
những nước vốn từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính
trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa
Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái
thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ
hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ
không những tiền của mà còn bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là
“thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng
khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ
dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ
Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa.
Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ, lãnh đạo
Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều
Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề.
Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Nhờ sự hy
sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ
chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế
Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu
của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng
tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản
xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới
nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào
khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ
trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây,
73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội
chiến và thực dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước
hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi cảnh
đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có thật đi nữa
cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn,
áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà
con thân thuộc.
Ngoại trừ các lãnh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một
giới lãnh đạo thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt
cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “hòa hợp
dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước
khi ký hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào,
hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm
1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện
nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ
thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ".
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một
mối thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ
vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn bộ Việt
Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của
chủ nô Mao Trạch Đông sau khi nướng gần một nửa triệu thanh niên Trung Quốc qua
các đợt biển người trong cuộc chiến Triều Tiên?
Chữ "nước" trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước”
là nước Trung Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt
trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của
cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết
xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin,
và và phải được một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường
lối sắt máu đó đã được các lãnh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi phối
toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát động cuộc chiến “giải
phóng miền Nam bằng võ lực” cho tới 30 tháng Tư 1975. Tất cả các hiệp định từ
Geneva 1954 cho tới Paris 1973 chỉ là những trạm dừng chân, thời gian nghĩ ngơi
dưỡng sức của đoàn quân CS chứ không phải là chặng cuối cùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao
nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối
cùng đã đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã
nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ
chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Lời phát biểu
của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần
Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào
tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống
đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có
ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng
định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu
khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.... Vào những năm cuối
thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng
lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa
đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng
sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc
hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh
diện. Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ
nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa
Mác về mặt kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng
cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy
trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát
bài “hòa hợp hòa giải” thắm đượm tình dân tộc, bên trong, các chính sách của đảng
vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều
bị tiêu diệt không thương xót.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc
vào bộ máy mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm
chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra. Điều
đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản như Võ Văn Kiệt,
Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa
được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm
quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã
trở về với vị trí một con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách
nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu,
được huấn luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt
trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo tâm
lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến
cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân chủ của thanh niên
sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác lòng căm thù chính sách
quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản
liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm
quyền Trung Quốc đã khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc
biểu tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến
tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công viên thuốc
độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”.
Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên
giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn
vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay
chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải
mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực
chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn cộng
sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả
năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam. Đảng CSVN là nguyên
nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đã phải chết một cách
oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và
quan trọng nhất, chiếc còng Trung Cộng mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc
Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống
đây. Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời
gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam
mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục
ngu dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa
học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc chiến
kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những
kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng không đủ can đảm để thừa
nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt Nam và tự dối lòng để tiếp tục sống
cho hết một kiếp người.
Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt
nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn. Nhưng người buồn không phải chỉ từ
phía những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền
Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS
đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc đời
trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ
không có một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, không
hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng vì tương lai đất nước.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng
4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những
dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng niềm
tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng.
Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết
Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam,
chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy
quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có
sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt
Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết,
còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi
mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử
hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn
giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có
một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói
nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau
nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang
đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu
số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN.
Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con
đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường
dân tộc và không có một con đường nào khác.
Bốn mươi năm là một quãng đường dài. Chúng ta đã hơn một
lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội. Cơ hội vẫn
còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời
đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là
tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu
tàn đổ vỡ, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng,
vinh quang và thống khổ Việt Nam.
Trần Trung Đạo
1 comment:
Một bài viết hay, hy vọng được nhiều bạn trẻ đọc.
Post a Comment