Bắt đầu bằng một
chuyện-trên-trời, cái chuyện vấn-đáp giữa cậu bé Hạng Thác và ông
vạn thế sư biểu họ Khổng. Cái thứ chuyện để dạy đời thì hổng là
trên-trời thì là gì?
… Khi Hạng Thác hỏi vậy chớ lông mày có mấy sợi thì Khổng Tử bí. Dù đó là một câu hỏi lãng nhách về một thứ lãng òm và thiệt tình là lãng xẹt vì chẳng ăn nhằm gì tới đạo lớn là thứ chuyên trị của người đối diện. Lại là thứ hiển nhiên tới nỗi chẳng làm ai bận tâm dù là mọc ngay boong trên mặt người.
Ờ có những chuyện ngay trước mắt sát bên tai mà
chừng hỏi lại thì ai cũng chưng hửng. Không nghe không thấy không hay
không biết. Đúng ra là tại vô tình, tại hổng-để-ý, tại xem thường
hay tại … hay tại … bị … bởi … vì … (ở đời có hàng triệu thứ
tại-bởi-vì khi người ta … bí!)
Có hôm nào ngồi buồn kiểu vọc-nước-giỡn-trăng mà rảo mắt quanh
mình, nhẩn nha ngó bộ bàn ăn với mấy cái ghế bọc da (mấy cái
ghế?), cái bàn thờ vốn là cái tủ kiếng kiểu tây có chưng mấy chai
rượu (mấy chai?), mấy bức tranh của Monet treo trên tường vẽ nội cái
góc vườn ở Giverny nhìn dưới nhiều thời khắc khác nhau (mấy bức
tranh?)… Nhìn ra xa một chút, mà nói đâu cho xa xôi, quanh đây thôi, ngay
trong ngôi nhà mình đang sống sớm hôm, ra vô từng bữa… thử hỏi coi nhà
mình có bao nhiêu cửa sổ, cửa cái trổ ra hướng nào, đông tây nam bắc?
Còn cái cửa sổ phòng ngủ nữa quay về đâu mà con trăng sáng đầu hôm
cứ xui ta thao thức, bâng khuâng nhớ lại một chốn nào… Giả sử vậy,
câu hỏi về những đồ vật quen thuộc nhất, gần gũi nhất đó có phải
đôi khi lại làm mình ngơ ngẩn. Ngơ ngẩn không phải vì xa lạ. Ngơ ngẩn
vì quá gần gũi. Ngơ ngẩn vì quá quen thuộc. Quen vì thấy hoài thấy
hủy. Thuộc vì vốn của mình chớ có phải của ai đâu!
Ờ, ở đời vậy đó. Có những cái vốn của mình
như tứ đại ngũ uẩn – mà Phật đã lỡ một lần nêu lên nghi vấn về quyền
sở hữu, còn nhiều cái khi không mình quơ quào nhận đại là của mình.
Thí dụ như là cái nhà của tôi, chiếc xe của tôi, hàng xóm của tôi,
thậm chí đến con vợ của tôi… mà lắm khi nghe hỏi tới mới giựt mình…
coi lại! À xe mình mang bản số gì há? Nhớ không? … Con vợ tui cao mấy
thước ? – ủa nói lộn nói lại vợ tui cao thước mấy? Biết không, dù
vẫn nói là… đầu gối tay ấp? Còn mấy cái vòng số một số hai số ba
nữa, sức mấy mà có người thứ hai biết được ngoại trừ ông Đông Hồ
mua-áo-cho-người-yêu mà khỏi phải xách thước đo trước?) … Còn bà lão
người Trung Hoa hay bắc ghế ngồi trước hàng ba, im ỉm và xa vắng như
một cung nữ về chiều bị đày vào lãnh cung, sáng qua gật đầu chào,
chiều về gật đầu chào, bà ta gục gặc chào lại khi mình qua sáng,
gục gặc chào khi mình về chiều… Lâu ngày rồi thành một hình ảnh
quen thuộc, quen thuộc đến độ mình quên bẵng có một người ngồi hôm
sớm, buồn hiu ở một góc hiên nhà… Sau một mùa đông dài và khắc
nghiệt, mùa xuân tới rồi mà chưa thấy lại cái ghế và người ngồi
đó. Sáng đi qua, chiều về lại, có một cái gì thiêu thiếu, đâu đây…
Rồi mùa xuân qua, mùa hè tới vẫn chưa thấy lại, hàng ba vẫn bỏ
trống… Một hôm nghe trẻ nít hàng xóm dọa nhau về một bóng ma Tàu…
Giựt mình hỏi lại. À thì ra, người đàn bà Tàu đã chết giữa mùa
đông năm ngoái, ngay khi cơn bão tuyết thứ nhất vừa đổ xuống. À là
như vậy, chỗ đó đã có một người đàn bà nhỏ thó hay ngồi lặng lẽ
ngó trời ngó đất, lặng lẽ tới đỗi làm mình tưởng đến một thứ quý
phi thất sủng ngồi nhớ tiếng vua đòi. Người đàn bà đó mấy tuổi, tên
gì, con cháu ra sao? Suốt một đời (bao nhiêu năm?) theo cha mẹ bỏ Trùng
Khánh? Hàng Châu?… gồng gánh nhau qua Việt Nam rồi năm 75 hay 76 hay 80…
theo con cái cõng bồng nhau lội biển qua tuốt bên này. Cái cuộc đời
nạn phụ dằng dặc đó lao khổ có thua gì cuộc vạn lý trường chinh của
Mao-xếnh-xáng đâu mà không nghe ai nói tới… Không hay! Không biết! Vậy
mà người đàn bà đó trong mấy năm nay đã là láng giềng trong cái khu
phố không nhiều lắm cái màu da vàng sẫm này. Tại thói đời cứ hay
nhìn lên, hay nhìn xa hơn cái tầm con mắt mình, ngóng cao hơn cái cần
cổ mình!
Kể ra quanh quẩn đây còn có bao nhiêu thứ dẫu
“nhìn” mà không “thấy”, có thấy cũng không thông. Mà có thông cũng
không đủ lòng nghĩ đến.
Vậy mà rồi có người nhìn và thấy, thấy rồi
lại mang lòng nghĩ đến, mà lại nghĩ miên man tới nơi tới chốn… về
những cái vụn vặt, lẻ tẻ, không đâu ra đâu. Những cái thứ ở ngay sát
bên mình, lẩn lút, loay hoay, lặng lẽ xoay trở quanh quanh, mờ mờ nhạt
nhạt, tưởng như không mà có, có thật. Những mẩu chuyện đời không có
quá một chi tiết ly kỳ đủ để khêu gợi sự tò mò của người bên cạnh.
Thứ chuyện đời mà người nghe đã có sẵn câu phản ứng…
ối-hơi-đâu-mà-nghe!
Mà thật ra nếu chịu lắng lòng mà nghe thì
dường như có nhiều điều để nghe lắm. Niệm-thiên-địa-chi-du-du …
Ông Trần Bang Thạch là một trong những người hay
lắng nghe những tiếng đời không lấy gì làm huyên náo đó. Làm như một
kẻ rất nhàn du trong một cuộc đời rất là chộn rộn, ông ta đi tới đi
lui, lẩn tha lẩn thẩn, đôi khi lúc tha lúc thúc một mình – chớ ai mà
rảnh rỗi đi cùng! Ông ta qua lại nhẹ nhàng, nói năng chậm rãi, từ tốn
như sợ làm kinh động cái nhịp sống vốn dĩ rất trầm kha… như một
người khách bàng quang chẳng mắc mớ gì hết với cái dòng đời rộn
rịp xuôi ngược quanh quanh. Mà thật ra cái vẻ nhàn lãm đó không giấu
được chút nào cái nhìn rất tinh tế, cái soi mói rất mắc mỏ ngay
tới những cái không ra gì – mà có cái gì ra cái gì chớ của cái
cõi ba-vạn-sáu-ngàn-ngày-là-mấy này. Độc-thương-nhiên-nhi-lệ-hạ.
Nội cái chuyện mua nhà (căn nhà thì nhỏ như cái
hộp quẹt mà cái chuyện mua nhà thì xưa chỉ ít hơn trái đất xưa có
chút đỉnh thôi mà ông cũng thấy và nghe ra trong đó bao nhiêu là
chuyện đáng nói làm người nghe theo cũng thấy bụng dạ dàu dàu). Căn
nhà ở đường Bush. Mà đường Bush nào nhỉ? Phải đường Bush ở Houston?
Mà sao nghe ra cũng hao hao cái chuyện mua nhà đâu đó ở New Jersey, ở
Dallas, ở Toronto, ở Montréal… mà lại cũng y chang cái chuyện mua nhà
ở bên tây bên Úc… trong những chương đầu của cuốn truyện dài ngàn
chương tỵ nạn. Cũng là… nhà nhỏ, cũ, hai phòng ngủ… nhà thuộc
loại frame house nên giá rẻ… Cái chuyện mua nhà của đám người
bừng-con-mắt-dậy thấy mình thân sơ thất sở với mớ điều kiện
ắt-có-mà-chưa-đủ: nhỏ, cũ, rẻ tiền. Thật ra có một điều kiện khác
không có giá trị gì hết trên thị trường mà dường như ở đây lại là
điều làm cho cái ắt-có thành đủ. Hai ông bà T gì đó (gọi là ông bà
A, ông bà B, ông bà C hay ông bà Danh… cũng được vậy) đã quyết định
chọn mua căn nhà trên đường Bush đó chỉ vì… hai hàng me
keo. Hai hàng me keo! Đúng là lãng nhách. Cái loại cây mọc đầy
đường đầy ngõ, hoang dại, thừa thãi trên đất cát miền Nam, chẳng ích
lợi gì ngoài cái việc chụm củi, chỉ được mớ bóng lá giao đầu phả
chút hơi mát dịu dàng xuống những buổi trưa miền Nam nóng hổi, cho
đám con nít đánh trỏng, bắn cu-li, hay mấy chị vú em ẵm con chủ ra
ngồi nói chuyện tào lao hoặc có giá hơn chút là trân mình chịu trận
mấy cái màn tình tự trai gái thiếu chỗ tự tình… Vậy đó cái thứ me
keo chẳng làm nên tích sự gì.
Nhưng bỗng dưng, khi đi xa rồi, thì mấy hàng me
keo đó lại đâm ra đầy sự tích. Sự tích về một Châu Đốc, Rạch Giá,
Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Nha Trang, Phan Thiết… cả Sài Gòn hay cả
miền-nam-miền trung-cao-nguyên-đồng-tháp … với những con đường lớn nhỏ
dài ngắn, cong queo hay thẳng tắp rợp toàn một bóng me keo. Sự tích
về những ngôi trường làng, trường tỉnh với vuông sân chơi mát rượi,
những góc đường góc phố với hàng xe bán nước
đá-bào-đậu-đỏ-bánh-lọt-em-tan-trường-về-anh-theo-Ngọ-về… đã hơn một
lần đụt nắng che mưa dưới cái tàn lá lưa thưa xanh mướt. Sự tích về
chính một quê hương lưu đày trong lòng người đi, thứ quê hương bỏ thì
thương mà vương thì tội. Ờ hai hàng me keo nối liền bến đò chợ
Cái Dầu với thị trấn Hòa Hảo đã là máu là thịt là xương là da
của anh chị.
Vậy đó hai hàng me keo ở đây (hay hàng còng
ở đó, hay hàng bã đậu trong này, hay hai hàng sầu đâu ngoài nớ cũng
vậy, mà hai hàng khuynh diệp góc phố, hai hàng sua đũa dưới quê, hay
hai hàng phượng đỏ đã-nhỏ-xuống-lòng-tôi-những-giọt-châu…) cũng chỉ
là những đắp đổi qua ngày đoạn tháng cho những mắc mớ trong lòng,
giữa khi mình ngó đâu cũng thấy lạ hoắc lạ huơ. Nhớ lại mà bồi
hồi, cái thời buổi gì kỳ cục. Thời đó, người ta cứ hay quơ quào
chụp bắt bất cứ cái gì đang-có-trước-mắt mà lại mang mang hơi hướm
cái-đã-khuất-mắt như để… thu ngắn lại mấy tấc lòng cố quận. Thời
đó ai nấy cũng thấy như mình đang phụ rẫy một cái gì, một cái gì
đang lầm than quá đỗi… Bởi vậy rồi cái hàng me keo đó, cái cọng rau
húng lủi đó, giàn bầu giàn bí đó, cái cầu gỗ bắt xéo cong cong đó…
trong những ngày lạc lõng bơ vơ đó, đã có giá trị như những chiếc
phao thấp thoáng trên dòng đời lơ ngơ, người ta vói chụp níu nó lại
với mình như cố níu lại chút xíu quê-nhà một sớm một chiều dưng
không mà xa mù xa mịt. Nói cách khác, tìm cho mình một hình ảnh rồi
vỗ về mình là quen thuộc chỉ cốt để trấn áp sức phản kháng vô
thức của cái mầm chùm gởi trước khi đành chịu tháp mình vào một
thân cây khác giống lạ nòi.
Chút xíu đó thôi, cái hàng me keo đó, bỗng làm
người ta thấy gần lại, cái quê hương khốn khổ. Và… người ta yên chí
làm lại… cuộc đời! Cái hàng me keo đó (hay cọng rau muống mắc dàng
trời, hay đòn bánh tét gói bằng miếng plastic nhuộm xanh, hay nhánh
forsythia nở hoa vàng giữa mùa tuyết trắng…) đã gỡ giùm nhiều người
lắm, những sợi chỉ nhện mắc mớ, những ngày ai nấy mới bỏ quê… Cử
đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương.
Cái ông Trần Bang Thạch này, lẫm rẫm vậy mà thâm
lắm. Lý do gì mua nhà thì không biết chứ tại cái hàng-me-keo mà mua
nhà thì biết ý nhau quá mạng. Cái lý do không văn tự nào chứng giám
(kể cả giấy tờ bằng khoán nhà đất) mà nó lại có giá trị của một
sự thề nguyền rằng… dẫu có xa nhà mà không xa quê. Dĩ nhiên lời thề
có sắt son hay không thì hồi sau phân giải. Nhưng mà hồi đó vậy đó.
Ai cũng có một nỗi lòng!
Kể chuyện mua nhà thật ra là để kể chuyện
đời-ta-ở-xứ-người. Mà đường vào đời ta ở xứ người thì cũng giống
như đường-vào-tình-yêu của Trúc Phương vậy, chỉ có trăm-lần-vui mà
có tới vạn-lần-buồn. Ông tẳn mẳn tỉ mỉ vòng vo từ hàng me keo quê
người tới cái vườn nhỏ xíu trồng đủ thứ rau quê mình, chính là để
nói tới cái giấc mộng thiệt lớn trong cái nhà thiệt nhỏ của một
người Việt Nam ở xứ người mà cứ tưởng ở xứ mình. Ông bà T mua nhà
vì muốn dựng nên một cảnh sống quê-nhà ở quê-người. Có điều, cây cỏ
ép uổng còn tàm tạm chớ con người thì đã có cái khuôn phép của xã
hội quanh nó. Người Việt ở nước ngoài là tháp cái đời mình vào
đời người chớ làm sao mà ngược lại. Cho nên ông T mua nhà với bao
nhiêu là mộng lớn với mộng con mà chừng con lớn rồi thì con cũng
mông lung như mộng. Đó là một sự thật rất… thật. Ông T tính mở lớn
nhà thêm khi con cái lớn lên, che thêm mái dựng thêm phòng khi có dâu
có rể y chang cái tính toán của một người-việt-trăm-phần-cốt-y.
Nhưng mà đâu có vuông tròn như vậy, đường vào đời ta! Cách nói loanh
quanh của Trần Bang Thạch là dẫn mình đi qua những căn phòng bề bộn
đồ đạc ăm ắp tiếng cười rồi dẫn mình quày trở lại cũng chính căn
phòng đó khi đồ đạc đã dọn hết đi, mọi âm thanh đã tắt hết vì
người ở đó chỉ là khách trọ, đến rồi đi, bỏ lại đó cái trống trơn
làm bằng cho chứng phù du của sự thế. Ông ta đi loanh quanh mà rồi
tới ngay boong cốt lõi. Làm gì thì làm, mua nhà mua block, mua đất
cất nhà hay xây kim tĩnh hay mua gì gì đi nữa thì nhà đất hay gì gì
đó cũng là của người chớ không phải của mình. Nhà với đất thì
tiếng mình làm chủ mà mấy ông chủ ngân hàng thì cứ đứng xớ rớ kề
bên. Con cái lớn lên ở xứ này thì theo điệu của xứ này mà bung ra
tứ xứ. Chùm gởi có quấn cây trăm vòng thì cây cứ là cây và chùm
gởi thì cứ lặc lìa lặc lọi mớ rễ lá lạc loài. Ông Trần Bang Thạch
viết chuyện mua nhà mà như viết cả hành trình của một người Việt
Nam ở xứ người, mà như viết cả hành trình của một CON NGƯỜI qua
suốt một cuộc lữ. Đọc Căn nhà trên đường Bush là theo ông loanh quanh
những nẻo đời bất tận, vòng tới vòng lui, xoay qua trở lại, giống
như trò chơi rồng rắn, đi đâu rồi cũng trở lại chỗ bắt đầu,
chỗ-khởi-đi cũng là chỗ-trở-về của một đời người đó thôi. Đã bắt
đầu từ một số không, thì chấm hết bằng cái chấm than cũng là phải
phải. Họa may như bà T, ngày tính sổ cuối đời chỉ còn một nhúm
tro than của người ba sinh hương lửa để mang theo đã phải kể là
vạn hạnh. Chấm than.
Vậy đó, ông Trần Bang Thạch có nói chuyện gì
cao xa đâu, toàn là ba cái chuyện-đầu-trên-xóm-dưới,
từ-thành-đến-tỉnh, đăng lên báo thì cũng chỉ ở trang ba trang tư.
Chuyện của ông ta gần xịt, quanh quất đâu đây. Nhưng trong cái quanh
quất chòm xóm có cái hun hút của thiên địa du du. Ông ta nói chuyện
hàng ngày, nhãn tiền. Mà trong cái nhãn tiền đó có cái biến thiên
của trời đất thường hằng. Chuyện của tôi, của anh, của chị, của
người hàng xóm, của ông giáo già về hưu lỡ một kỳ hẹn chót với môn
sinh, của anh tài xế xe hàng tan tành hạnh phúc từ sẩy tay của định
mệnh, của chị lao công da đen hy sinh cho chồng con tới hết đời, của
anh chàng A-Phú-Hãn (hay Việt hay Miên hay Lèo…?) lưu vong và buồn rầu cứ
hay ra bờ sông ngó mấy ống khói tàu vật vờ mà thả hồn theo nước
lớn nước ròng về cố xứ, của người đàn ông già hết thời đi lượm lon
nhỏ làm việc lớn, của ông kép hát cả đời góp vui cho thiên hạ đến
giờ chót có chút vui riêng mà cũng chẳng kịp vui… nghĩa là của
những con người bình thường với mơ ước vui buồn hạnh phúc khổ đau
cũng bình thường như chính cái cuộc sống rất đỗi bình thường
không-có-gì-để-nói của họ. Cái để nói ở đây chính là tấm lòng mẫn
cảm của ông đã nhìn ra, nghe được từ những sự việc rất bình thường
đó cái lớn lao trong nhỏ nhoi, cái phổ quát từ những riêng tư, cái
không thường giữa những việc quá thường. Nhân vật của ông – mà có
gọi là nhân vật được không, những ông bà T, anh Benito Vasquez, chị
Rosa, bà Carol… hay ai ai nữa… mà nếu không gọi là nhân vật thì gọi
là gì trong cái vở tuồng ba hồi sáu cảnh mười tám cái linh đinh đó?
Họ không sắm tuồng, múa may cười khóc theo một kịch bản nào hết,
nếu không nói là chỉ theo có cái sắp xếp của ông đạo diễn ở tuốt
trên… trời. Cái quay búng sẵn… Nhân vật của ông sống cái đời của họ,
vậy thôi. Mà qua đó cũng không thông điệp chẳng tuyên ngôn gì ráo
trọi. Họ chỉ làm cái chuyện như anh, như tôi, như chị đã, đang
và sẽ làm, chẳng anh hùng cũng không tiên tiến, không vĩ đại mà cũng
không ti tiện, họ làm cái chuyện họ phải làm, không cao cả mà cũng
không thấp hèn. Họ làm cái chuyện cần làm. Vậy thôi. Chấm và hết.
Dẫu vậy, nói vậy mà rồi không phải vậy. Bởi vì, để làm một việc
xem ra tầm thường, lắm khi không dễ chút nào… Đôi khi để làm một việc
ngó bộ nhỏ nhoi lại phải cần một tấm lòng vô cùng quảng đại…
Cho nên đọc truyện của Trần Bang Thạch nghe kể
toàn chuyện lụn vụn lặt vặt, thứ chuyện mới nghe qua thấy đơn giản
làm sao. Vậy mà chừng nghĩ lại không đơn giản chút nào. Mà làm sao
đơn giản cho được. Cuộc đời vốn trăm mặt. Mà ông Trần Bang Thạch này
còn muốn lôi ra cái mặt thứ một trăm lẻ một nữa là khác.
Theo Trần Bang Thạch đi loanh quanh vào một thế
giới rất thực là khép lại con mắt mộng mị để nhìn ngó cuộc đời
như chính nó là nó. Thứ cuộc đời rất quen thuộc với tất cả những
kỳ quặc đã quay ta mòng mòng. Thứ cuộc đời rất vô nghĩa với tất cả
những nghĩa lý đã làm ta chóng mặt. Cũng như thứ cuộc đời với tất
cả những nhỏ nhoi rất phi thường của nó vậy. Ông ta phanh phui
rất ân cần. Ông ta soi mói tới hết dạ. Ông ta lật tới lật lui những
mảnh đời, ngắm nghía so đo cân nhắc để tìm cái chỗ-thương-cho-được
(mà thật ra có cuộc đời nào mà không đáng thương giữa cái cõi đời
rất đáng ghét này). Cho nên ông ta nghe thấy được những điều mà mọi
người không nghe thấy. Cả đến một điều chưa kịp nói giữa hai
cha con sau khi đã tử biệt. Cả đến nụ cười mãn nguyện của mẹ
từ trên mây, nhiều năm sau, khi bầy con mồ côi vừa thành đạt. Ông cảm
được hết, kể cả những hạnh phúc rất trái cựa, những đau khổ rất
lặng lẽ, những oái oăm ẩn nấp đằng sau cái vẻ nhởn nhơ của những
nếp đời rất mực phẳng phiu. Có điều khác với cái lối bi quan cố
hữu của đa số, Trần Bang Thạch luôn tìm được từ trong nghịch cảnh một
sự thỏa hiệp nào đó với bi kịch. Ông thấy ra trong sự nhẫn nại chịu
đựng khó khăn là bài học rốt ráo của mọi sự lầm than, trong tận
cùng của mọi oan khiên đều có những thăng hoa rất là
luân-lý-giáo-khoa-thư. Ông luôn tìm cách nhìn đời qua hai mặt của một
đồng tiền.
Đó có phải là một cái nhìn ngây thơ vô tội vạ.
Một cái nhìn… rất ư là ba phải. Không, cái nhìn đó thật ra xuất
phát từ một tâm địa rất lành. Lành như văn chương của ông vậy.
Lành như câu viết rất giản dị, gần gũi với văn
nói, đặc biệt là lối nói miền Nam. Nhưng là một miền Nam kẻ-chợ.
Lâu lâu lại chêm vào đôi ba chữ đặc sệt miệt-vườn làm điếng người như
cái miệng cô ba cười nháng nháng cái răng “dàng”. Mạch văn suôn sẻ,
lưu loát, chắc-tại-vì-bỏ-nước-đi-lâu-rồi, đọc lên nghe khoái tai, nghe
như dễ-ợt-ai-viết-cũng-được mà thật ra cái kỳ khu thì đã nằm sẵn
trong sự chọn lựa và sắp xếp chữ nghĩa theo một luật lệ âm thanh
nào đó của riêng ông.
Văn của ông vì vậy nghe nhẹ hều, chữ nghĩa êm ru
bà rù, lại lẩn tha lẩn thẩn giông giống điệu mấy ngón tay rờ rẫm đâu
đâu… Vậy rồi giữa lúc đang u u mê mê, ông nhéo một cái, móng tay sắc
lẻm, làm ai nấy nhói đau mà không kịp kêu “ái”… vì cái đau đã thấm
sâu, sâu lắm, thấu tuột vào tới ruột gan… thức ăn dư
thừa (của bà mẹ già nấu sẵn “dụ” mấy đứa con về ăn mà nó…
không về) bà còn có thể đổ đi, còn nỗi buồn của người mẹ già
nua… bà biết đổ đi đâu! Trời ơi nỗi buồn biết “đổ” đi đâu! Chữ
“đổ” của ông quả là hết ý. Có thua gì chữ “đổ” trong
múc-ánh-trăng-vàng-đổ-đi. Có điều múc buồn “đổ” đi còn có cái vẻ
giận-lẫy-dễ-thương-hết-sức của mấy bà mẹ già móm xọm thương con
đứt ruột, muốn đem đổ-hết-cho-rồi-mà-sợ-rủi-nó-về-nó-đói-bụng.
Chữ hết nghĩa ông ơi. Còn nữa nè … sáng sáng vừa đi bách bộ
vừa nghe chim hót trên ngọn me keo, vừa thấy lòng mình đang mọc cánh
bay về một thỏi cù lao bên bờ sông Hậu. Sao tui khoái cái chữ
“thỏi” của ông lắm vậy. Làm cho nỗi thiết tha với khoảng cù lao nhỏ
xíu của ông bỗng lớn vọt lên, tỉ lệ nghịch với tầm vóc được thu nhỏ
lại thành thỏi bỏ-lọt-túi-áo, kiểu như thỏi kẹo thỏi đường hay
“thỏi” tình của mấy anh si hồi xưa
thương-em-không-biết-để-đâu-để-trong-túi-áo-lâu-lâu-lại-dòm vậy đó.
Lại nữa, có lần theo ông về thăm mẹ ở miệt lục tỉnh, đang mơ mơ màng
màng trước cảnh cũ người xưa, bỗng ông giáng cho mấy chữ bên bờ
kinh xáng thổi, tui muốn té ngửa ông ơi! Ờ mấy cái bờ kinh xáng thổi
giữa một miền Nam sông nước ngổn ngang làm cho cái xa xôi nó bỗng
xích lại gần tận mặt, gần tận mặt mà vẫn đoạn đành thiên lý nên
giữa lòng ta bỗng quậy chút ba đào.
Cái lối viết theo kiểu người dưng nước lã, đứng
nép bên đường, để mặc cho sự tình nối đuôi nhau liền lạc như tính
liên tục của dòng đời, đôi khi chuyện tới sau làm phản đề cho chuyện
tới trước khiến cho bố cục gây đột biến một cách tự nhiên làm người
đọc bị lôi cuốn một cách dễ chịu, buồn vui rồi hờn giận theo lúc
nào không biết mà buồn vui hờn giận gì cũng nhẹ nhàng thanh thản…
đến nỗi có đôi khi lại thấy có chính mình ở trỏng… là một
lối-viết-rất-trần-bang-thạch. Lối viết của một người tốt bụng.
Ông Trần Bang Thạch ơi, ông làm văn chương tuyệt
cú lắm. Văn chương là loay hoay loanh quanh vậy đó ông. Đâu cần phải
gồng mình thở phì phò như kéo cây kéo gỗ. Hay trân mình trân mẩy mà
la lối ba cái chuyện triết lý bí hiểm siêu hình siêu việt trời ơi
đất hỡi mới là văn chương. Làm văn chương thì thủng thẳng mà làm,
thấy đâu nói đó, thấy gì nói nấy, thấy-sao-nói-vậy-người-ơi. Nội
cái cõi trước mặt sau lưng mà nói, nói hoài cũng không hết. Khỏi
làm bộ làm tịch, phồng mang trợn mắt làm chi cho thêm bí hiểm cái
sự đời. Ai thấy chuyện ngàn sao thì bay bổng nói chuyện trên trời. Ai
thấy chuyện xe cán chó hay chó đụng xe thì rà rà kể chuyện dưới
đất. Còn ai nghe được tiếng đời rủ rỉ như ông thì cứ rù rì mà kể
lể. Gió lớn có cái khoái-tai-phong-dã thì gió hiu hiu có cái êm ái
thầm thì.
Thầm thì thì thấm.
Cao Vị Khanh
No comments:
Post a Comment