__________________
VŨ THẾ THÀNH
Tôi hận ông thầy Việt văn lớp
Mười một. Ổng chơi không đẹp khi bắt tụi tôi học thuộc lòng bài thơ Kẻ
Sĩ của Nguyễn Công Trứ. Đó là bài hát nói gieo vần “vô kỷ luật” nhất
mà tôi từng biết, chả vần chả điệu, lòng thòng, Hán nhiều hơn Nôm.
Vũ Thế Thành (trong tập tùy
bút “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ)
Đây này, trích thử vài câu
nghe chơi:
… Cầm chính đạo để tịch tà cự
bí
Hồi cuồng lan nhi chướng
bách xuyên…
Cầm chính đạo để tịch tà cự
bí…
Mà tôi theo ban Toán, chứ có
phải Văn chương đâu. Hiểu được ý nghĩa bài thơ đó cũng đáng nể rồi, giờ còn bắt
học thuộc lòng nữa, coi sao được. Lớp bốn mươi học sinh, mỗi tuần chỉ có hai giờ
cổ văn, tôi có bảy mươi lăm phần trăm thoát hiểm, lỡ bị gọi trả bài thì coi như
trời hại. Nhưng ổng tỉnh bơ:“Tôi sẽ gọi từng người cho đến hết lớp”. Ổng còn
thêm: “Ai không thuộc, tôi sẽ cho cơ hội lần sau, và lần sau nữa cho đến khi…
có điểm”. Thế là rõ! Ổng quyết tâm… chơi tụi tôi đến cùng. Không còn chọn lựa
nào khác, đành ôm hận, lảm nhảm méo mỏ với cái bài thơ đó cho đến khi thuộc
lòng.
Cơ hội rửa hận đến khi ổng
ra đề luận: Bạn nghĩ gì về tình thầy trò ngày nay?. Từ hồi biết
mặt chữ, tôi chưa bao giờ “múa bút” sướng như thế. Nào là, thời xưa học một thầy,
học để làm quan, và chỉ học nghề… văn. Thời nay, học đủ thứ, cần gì học nấy, học
để hành nghề, để kiếm cơm. Thời đại khoa học, ai học trước người đó
là… “thầy”, bởi vậy mới có chuyện đi học luyện thi, mới có thầy giáo “cua”(*) học
trò… Đại loại bài luận văn là một “bản cáo trạng” về thầy. Tôi khoắng
bút như một nghệ sĩ, cho đến khi gần hết giờ, chấm xuống hàng, kết luận: Nên
xem thầy giáo như người anh, coi bộ nhẹ nhàng hơn khi nhìn dưới khía cạnh đạo đức.
Thiệt hả giận! Tôi viết với tư thế “tử vì đạo”, ăn trứng vịt cũng được, không
thành danh thì cũng thành… ma.
Bài luận được mười sáu điểm.
Hôm phát bài, ông thầy cười cười: “Tôi không đồng ý với em nhiều điểm,
nhưng vẫn cho em số điểm cao nhất”. Thiệt chưng hửng! Tôi mơ hồ hình như ổng
chơi trên… cơ mình, nhưng “cái tôi” khốn nạn đã đẩy tôi đi quá xa, khoác lác hả
hê với bè bạn: “Cái hận Kẻ Sĩđã rửa xong!”.
Ổng còn nhiều chiêu kỳ quái
khác. Tú Xương thì học trò đứa nào chẳng khoái. Lẽ ra phải chia sẻ chút đỉnh với
đám học trò mới lớn bằng những câu thơ:
Cao lâu thường ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lường
hay ít ra cũng thông cảm với
bọn học trò đang chuẩn bị bước vào vòng “ân oán” của thi cử:
Đau quá đòn hằn, rát hơn lửa
bỏng
Hổ bút hổ nghiên, tủi lều tủi
chõng…
Thi là thế, học hành là thế,
trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một
nơi, than thân với bóng!
Không! Ổng phang bài:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngửng đầu rồng.
Ổng giảng say sưa, bằng giọng
bi ai, phẫn hận về thời Nho mạt, về danh lợi, về nhân phẩm… Ổng truyền lửa cho
đám học trò đang há hốc miệng ngồi nghe, xả suốt hai giờ đồng hồ. Hình như
ổng đang dạy tụi tôi kiến thức để làm người, chứ không phải kiến thức để đi
thi. Ổng đâu ngán cháy giáo án. Mà hồi đó làm gì có giáo án. Bài soạn của ông
là xấp giấy khổ A4 gấp đôi, chẳng bao giờ thấy ổng mở ra. Ổng chỉ mở… sổ điểm để
gọi tên khảo bài.
Đời cứ thế trôi đi… Những
năm cuối thập niên 70, đầu 80, đời sống khó khăn thế nào khỏi cần kể. Tôi làm ở
một trung tâm nghiên cứu ở Sài Gòn. Ban ngày khoác áo blouse vào phòng lab cứ
như là… viện sĩ. Tối về mượn xích lô của thằng bạn, cảo vài vòng kiếm thêm. Một
buổi chiều trời mưa, ế độ, tôi tấp vào quán nhậu ven đường (cái lều nhậu thì
đúng hơn) gần ngã tư Bảy Hiền. Hồi đó khu này còn hoang vắng lắm. Quán
cũng ế độ nốt, chỉ có mình ông chủ đang trầm ngâm bên ly rượu. Tôi kêu một xị,
ngồi trông ra đường, nghe tiếng mưa lằng nhằng trên mái nhà, rầu thúi ruột… Chợt
nghe tiếng ngâm ê a của ông chủ quán từ phía sau. Lời ngâm nghe quen quen… Rồi
tự nhiên tôi cũng cất tiếng ngâm theo:
… Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng
tất
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị,
canh Sằn
Xe bồ luân dầu chưa gặp
Thang, Văn.
Phù thế giáo một vài câu
thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà cự
bí.
Hồi cuồng lan nhi chướng
bách xuyên…
… và cứ thế cho đến hết
bài Kẻ Sĩ.
Rượu đến mềm môi…
Một khoảng im lặng. Tôi quay
lại, không ai bảo ai, cả hai nâng ly mời nhau. Trong sự nghiệp cụng ly của tôi,
chưa bao giờ tràn ngập những tiếng nói không lời như lần đó.
Chủ quán trạc ngoài ba mươi,
cao học luật, công chức chế độ Sài Gòn. Sau 75, đi cải tạo bốn năm, về mở lều
nhậu tiêu sầu. Chúng tôi cà kê chuyện đời, chuyện người, chuyện số phận đẩy
đưa… Rượu đến mềm môi. Bài thơ Kẻ Sĩ thuở đi học tưởng đã trôi
vào quên lãng, bỗng thức dậy trong một đêm mưa, có người đồng điệu, ngân nga
như tiếng chuông đeo đẳng đời người.
Đất nước thời mở cửa, kinh tế
thị trường nửa khép nửa hở. Kiếm sống bằng năng lực thì ít, nhưng bằng quyền lực
hay dựa hơi quyền lực thì nhiều. Luật lờ mờ, nhưng lệ rõ ràng. Làm ăn là phải
biết điều, gọi văn vẻ là… thỏa hiệp. Thỏa hiệp đủ thứ, không thỏa hiệp không được.
Giới hạn thỏa hiệp tới đâu, tùy thuộc vào nguyên tắc sống của mỗi người. Cái giới
hạn này mong manh, tự mình hạ thấp giới hạn xuống, rồi tự biện minh với bao lời
hoa mỹ, đi ngược lại xu hướng thời đại là không thức thời. Dối người, dối mình,
đạo đức giả hồi nào chẳng hay.
Kẻ Sĩ thời nay lộn ngược rồi:
Thương, Công, Nông, Sĩ. Ai chẳng khoái tiền, khoái danh. Cám dỗ vô cùng! Đạo lập
thân làm sao giữ lấy cương thường? Mỗi lần như thế, tiếng chuông đêm mưa ở cái
“lều nhậu” lại vang lên, làm nhức nhối kẻ bị mang tiếng là… gàn dở, toát mồ hôi
với cái lưới “đầu rồng đít vịt”.
Kinh thánh có chuyện kể, đứa
con út đòi cha chia gia tài, rồi tìm đến phương trời xa vui chơi thỏa thích.
Người cha chiều nào cũng tựa cửa đứng trông con về. Rồi thằng con về thật. Nó
đã phung phí hết tiền, bây giờ đói rách trở về nhà cha xin chén cơm thừa. Nhưng
người cha mừng rỡ, đã mặc áo mới cho nó, làm tiệc linh đình mừng con mình trở về.
Văn hào Pháp, André Gide,
cũng có câu chuyện Đứa con hoang đàng tương tự, chỉ khác khúc
cuối. Đang giữa tiệc mừng, thằng con lững thững bỏ về phòng, nhìn xa xa qua
khung cửa sổ, nhớ đến những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng cùng chúng bạn. Nó
đang mơ một chuyến đi khác. Trở về chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Hồi đó, đọc đến đoạn
này, tôi bật cười sảng khoái,“Phải thế mới được!”.
Thưa thầy Việt văn, thằng đệ
(tử) giờ đây đầu bạc chân mỏi, ngày Nhà giáo năm nay xin hầu thầy cho đến tận
cùng bữa tiệc để khoanh tay nói lời tạ lỗi, trước khi phản xạ tung hô theo đám
đông: Biết ơn thầy cô.
Vũ Thế Thành ( Đà Lạt 2012,
trong tập “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ”)
—–
(*)Cua:
Tán tỉnh
No comments:
Post a Comment