_____________
Tràm Cà Mau
Ông
Phú đã tám mươi tư tuổi, bị vợ giận vì suốt ngày ngồi ôm máy vi tính. Bà gọi
cái máy nầy là “người tình mặt vuông cổ ngắn” của ông. Bà bỏ về tiểu bang
Florida thăm cháu ngoại. Bà rủ ông đi, và nói khích rằng, sức mấy mà ông nỡ xa
“con vợ bé mặt vuông”. Ông thì không muốn làm phiền anh con rể gốc Mỹ, tôn trọng
đời sống riêng tư của hắn. Nếu đi thăm, thì ngụ tại khách sạn, chứ không ở
chung nhà. Bà sợ tốn tiền, và cũng muốn được gần gũi, chơi với cháu ngoại nhiều
hơn, nên dù ông không chịu, thì bà cũng cứ đi. Ông dọa bà rằng, con rể Mỹ thường
có thành kiến, và xem mẹ vợ như chằn tinh. Người Mỹ có cả trăm ngàn chuyện tiếu
lâm về bà mẹ vợ. Chuyện ông Adam là người đàn ông hạnh phúc nhất thế gian, vì
ông không có một bà mẹ vợ, là một chuyện điển hình.
Bà
nói, không cần biết, và cứ nhất định ra đi. Ông mở “internet”, tìm vé máy bay rẻ
mua cho bà. Khi đưa bà ra phi trường, ông ôm tạm biệt và định nói rằng: “Hồi
này bà không còn thương tôi nữa.” Nhưng tủi thân mà không nói được. Ông thầm
thì: “Bà đi bình an nghe, vui nhiều với con cháu”.
Quay
về nhà, tự nhiên căn nhà thành hoang vắng, quạnh quẻ. Buồn buồn, ông lật tờ
báo, đúng trang có bài thơ “Hạnh Phúc Từng Phút Giây”. Đọc bài thơ xong, ông hết
buồn ngay. Ông gật gù đọc lại hai câu thơ:
“Mỗi
ngày qua, men hương đời uống cạn.
Sống
một giờ, vui sáu chục phút vui”
Ông
biết rõ, thời gian còn thấy ánh mặt trời chẳng còn bao lâu nữa. Không tội chi
mà phí phạm trong u buồn, dằn vặt, khổ đau, vô ích. Ông vừa đi vừa nhún nhẩy
hát “Tứng từng tưng, tứng từng tưng, tưng từng..” Rồi hân hoan ngồi vào máy vi
tính, thư của bạn bè từ năm châu gởi đến cả trăm cái, chan chứa thân tình. Ông
thầm cám ơn kỹ thuật tân tiến, đã thu nhỏ không gian của
thế
giới lại, để dù cho nghìn trùng xa, mà cũng như gần trong gang tấc. Có nhiều
thư kèm theo hình các cô gái thân thể hồng hào lồ lộ, không áo quần, ông nhìn
mà không có một chút động tâm nào. Con cái nhà ai mà đi phô trương thân thể cho
thiên hạ xem thế nầy? Bố mẹ các cô thấy được, thì có bực mình không? Ông bấm bỏ
hết các thư đó. Giá như còn trẻ, chắc ông cũng sẽ cất mấy tấm hình nầy lại và
chuyển gởi cho bạn bè khác xem. Có phải các cô gái nầy muốn đem ra chia phần
cho thiên hạ thưởng thức đường nét mỹ thuật trời dành riêng các cô không?
Ông
Phú cười vì nhớ lại lời vợ nói rằng, đàn ông mà không có các bà nấu cho ăn, thì
sẽ chết đói ngay. Có phải bà bỏ đi cho ông chết đói chăng? Mỗi lần nghe bà nói,
thì ông cười thầm, vì bà đã quên chuyện thời ở tù cải tạo, ông đã từng nấu cơm
cho hàng trăm tù nhân ăn. Nấu cho chín nồi cơm to lớn kiểu đó, thì đâu phải dễ
dàng?
Buổi
tối, ông ngồi nhấp trà nóng khề khà, nhìn ra cửa sổ, ngâm nga vài câu thơ ca tụng
mùa đông. Bên ngoài tuyết rơi trắng xoá. Nhạc Chúa giáng sinh vang vang từ xóm
giếng vọng lại.
Bỗng
cái máu lãng mạn dậy lên trong lòng, làm ông ngất ngây, muốn một mình đi lang
thang trong mưa tuyết giữa đêm Chúa giáng sinh. Nếu có vợ ở nhà, thì làm sao
ông dám tự do thực hiện được cái ý muốn ngông nghênh nầy. Ông cười sung sướng
và nghĩ rằng, vắng vợ, cũng có cái hạnh phúc riêng khác. Ông nghĩ lại mà thương
vợ, bà cấm đoán ông nhiều thứ, vì lo lắng cho ông, sợ ông gặp tai nạn bất ngờ,
sợ ông mệt. Nhưng bà quá lo lắng, và xem ông như đứa bé con, đôi khi làm ông bực
mình.
Ông
Phú mặc thêm áo khoác, kéo cao cổ, quàng khăn kín nửa mặt. Ngoài trời hoa tuyết
vẫn còn bay lượn nhởn nhơ trong ánh đèn điện mù mờ. Ông cầm cây dù có cán dài
làm gậy chống bước ra đường. Ông tự dặn dò, phải cẩn thận, đường trơn tuyết, đừng
để té ngã mà vỡ xương chậu thì khốn đốn. Đêm giáng sinh, đường vắng, lâu lâu mới
có một chiếc xe của kẻ về nhà
muộn
vụt qua. Nhà nhà kết hoa đèn màu sắc nhấp nháy. Ông Phú bước đi, lòng lâng lâng
đầy sảng khoái. Ông vừa đi vừa hát nho nhỏ ca ngợi cuộc đời tử tế, dễ thương.
Chỉ còn mình ông đi bộ giữa đường vắng vẻ khuya khoắt hôm nay. Không chừng ba bốn
chục năm rồi, ông mới có dịp đi một mình như hôm nay, với tâm trạng hoàn toàn tự
do, thảnh thơi nhẹ nhàng.
Đến
một đoạn lề hẹp hơi tối tăm, ông thấy một kẻ không nhà, trùm một đống áo quần,
ngồi bên chiếc xe đẩy , tuyết rơi phủ trắng cả xe lẫn người. Có lẽ đây một kẽ bị
bệnh tâm thần lang thang. Lòng ông cảm thương. Ông còn mái nhà để về đêm nay,
còn chén trà ấm áp để thông cổ, còn có chén rượu nhấp, và đói thì còn có thức
ăn trong tủ lạnh. Kẻ không nhà nầy ngồi đây, lạnh lẽo, đói, khát, cô đơn, buồn,
lo, sợ đủ thứ. Đoạn lề đường khá hẹp. Ông ngần ngại, sợ bị tấn công bất thần.
Ông định quay lui, cẩn thận là hơn. Nhưng chân ông vẫn bước tới. Ông sẵn sàng
phản công tự vệ bằng cây dù, nếu cần. Ông cố nhớ cho ra một thế võ hữu hiệu để
sử dụng trong trường hợp nầy. Sức ông yếu, mà kẻ kia thì mang áo quần dày, có
đánh vào người thì cũng như phủi bụi, không hiệu quả. Chỉ có cách đá vào hạ bộ,
mà chân ông thì đi còn chưa vững, sức đá e cũng chẳng có là bao. Chỉ còn cái
mũi dù là bén nhọn, đâm vào mắt thì ác quá, ông không dám, có lẽ yếu điểm hữu
hiệu nhất là quanh yết hầu. Tim ông đập mạnh, tiến từng bước cẩn thận. Ráng làm
ra vẻ bình tĩnh, sao cho kẻ kia đừng biết ông đang sợ. Bỗng ông thấy gã khoa
tay, ông nhảy lui và chĩa cán dù ra thủ thế, đồng thời la lớn: “Ya..a..a..a” để
cướp tinh thần địch thủ khi phát chiêu. Nhưng chân ông không vững, ngã nhào ra
mặt tuyết. Ông lanh lẹ lăn hai vòng, nắm ngửa, hai tay giữ vững cán dù và la lớn:
“Muốn chết thì đừng đụng vào ta!”. Trong khi đang hoảng hốt ông đã nói sai.
Đáng ra là “Muốn sống thì đừng đụng vào ta”, mà ông nói “muốn chết”. Hình như kẻ
kia nhỏm người, định rời chỗ ngồi, đến tấn công hoặc để giúp, đỡ ông dậy, mà
nghe thế nên ngồi yên. Ông cẩn thận từ từ đứng lên, nói cho to kẽ kia nghe, để
hắn sợ: “Lạy Chúa, con đã giết nhiều người quá rồi, đừng bắt con phải giết người
thêm nữa.” Gã không nhà bỗng vùng dậy, bỏ chạy và la lớn “Cứu với, cứu với, kẻ
giết người” Nghe thế ông cũng hoảng sợ, và quay gấp lại đường cũ, hấp tấp bước.
Trống ngực ông đánh thình thình. Ông rẽ vào một ngõ tối, đi vòng qua đường lớn
khác. Tiếng nhạc giáng sinh du dương vọng từ các căn nhà ven đường, làm lòng
ông dịu lại. Ông ân hận đã làm cho gã kia sợ hãi bỏ chạy. Nhìn xuyên qua cửa sổ
nhiều nhà, ông thấy thiên hạ đang họp mặt, ăn uống, ngồi quanh nhau, lòng
ông
vui, vui lây với hạnh phúc của mọi người.
Khi
đi ngang qua một nhà thờ, thấy xe đậu đầy trong sân rộng, ông theo chân vài người
bước vào bên trong. Không khí ấm áp. Nhà thờ cao, rộng. Ông ngạc nhiên thấy
giáo dân toàn cả đầu đen. Vị linh mục đang làm thánh lễ, nói tiếng Việt. Ghế ngồi
không còn, nhiều người đứng xếp lớp đằng sau các dãy ghế bên hông. Họ ăn mặc chỉnh
tề, đàn ông áo vét, cà vạt, đàn bà áo dài quàng khăn hoặc “còm-lê” màu sậm. Chỉ
có ông là nhếch nhác lôi thôi. Nhiều người đứng dậy nhường ghế, ông không chịu,
giả vờ đi qua phía khác cho họ yên tâm. Ông nhìn quanh, trai gái, già trẻ, đủ
các lứa tuổi. Nhiều thanh niên mặt mày hung bạo, cũng đứng vòng tay trang trọng
thành kính. Vị linh mục đọc kinh, ông không nghe rõ lắm. Cứ mỗi câu của vị linh
mục xướng, thì được toàn thể mọi người đồng thanh đáp lại bằng một câu khác. Lời
kinh nghe êm êm với âm thanh khi cao khi thấp như hát hò. Ông chỉ hiểu được mơ
hồ thôi, nhưng lòng cũng ấm lại. Ông tự nói cho mình nghe: “Phúc thay cho những
ngưòi còn có niềm tin tôn giáo”. Thánh lễ vừa trang nghiêm, vừa như trình diễn
văn nghệ, đẹp mắt, đoàn thiên thần áo trắng rộng, xếp hàng đi quanh, thanh
thoát như bay lượn. Linh mục chủ lễ cầm cái dây nối với bình trầm lắc lắc đu
đưa, có khói mờ lan tỏa. Tiếng đồng ca đong đưa nhẹ bồng “Bình an dưới thế cho
người thiện tâm…” Ông thầm cám ơn Trời, vì ông đang được bình an, đời sống
không có gì lo âu, chỉ có chút đau ốm bệnh tật, không có gì khó khăn. Còn chống
gậy đi được dưới tuyết, còn nghe được lời ca tiếng hát du dương, còn được thấy
cảnh vật, bạn bè, bà con. Không có đạo, nhưng ông cũng quỳ xuống làm dấu thánh
giá. Khi đứng lên, ông chóng mặt, muốn ngã nhào, phải đứng thở sâu, nén hơi xuống
bụng một lúc, mới lấy lại bình thường.
Đứng
xem lễ một hồi mỏi lưng, ông đi thụt lùi, ra khỏi nhà thờ. Đường càng vắng hơn.
Cũng có người đi dự lễ đã lui xe ra về. Đi qua một đoạn đèn mờ, ông thấy cặp
trai gái đang ôm nhau, hai tấm thân áp sát, hai vòng tay siết chặt. Có lẽ họ
cũng đã trên bốn, năm mươi tuổi rồi. Tuổi nầy mà còn lén lút hẹn hò, thì e cũng
có điều đáng đánh dấu hỏi. Sao không vào nhà mà ôm nhau lăn lộn, có khoái hơn
không? Đâu phải trẻ con mười bốn mười lăm tuổi, sợ bố mẹ cấm đoán, phải thậm thụt
nơi góc xó đường vắng? Có ai dám cấm đoán họ yêu nhau trong tuổi nầy? Hay người
đàn ông kia đang có vợ? Có lẽ đàn bà thì ít khi trốn chồng ra nơi bụi bờ ái ân
với người
khác.
Ông nhớ lời trong sách viết rằng, ái tình vụng trộm thì mê nồng say đắm, nhưng
thường sợ phải công khai lấy nhau.
Đi
trọn một vòng lớn, ông về đến nhà thì đồng hồ đã chỉ gần một giờ khuya. Ông nằm
ngửa trên ghế nệm, thở dốc. Mệt, nhưng thấy khoan khoái, sung sướng, hạnh phúc.
Ông uống một ly rượu cô-nhắc nhỏ, máu trong người chạy rần rần ấm áp. Thay áo
quần xong, ông bật đèn, nằm đọc sách, chưa được nửa trang, thì mắt ríu lại,
sách rơi và ông đi vào giấc ngủ ngon lành.
Khi
gần sáng, ông lăn người vòng tay qua ôm vợ, nhưng vòng tay trống vắng, làm ông
giật mình hoảng hốt. Bà đâu rồi? Bà dậy đi đâu? Ngưng ông chợt nhớ bà đang đi xa.
Ông thở dài. Một chút buồn len qua trong ông. Nhưng ngay sau đó, ông cười, và tự
bảo lòng, khi nào cũng phải vui, hoàn cảnh nào cũng cứ yêu đời. Vợ có ở nhà,
cũng vui , mà vợ đi vắng thì cũng cứ vui theo lối khác. Nếu bà ở nhà, mà cứ gắt
gỏng, chê bai, than vãn và làm khó ông, thì bà đi vắng, ông mới hưởng đưọc sự
yên bình thanh thản. Nghĩ thế mà lòng ông vui,và ngủ lại rất mau, giấc ngủ ngon
lành vào lúc bình minh sắp ló dạng.
Buổi
sáng, ông Phú tập thể dục theo lối “thái cực quyền”, phất tay đủ 1800 cái. Đáng
ra phải để tâm rỗng không như sách dạy, nhưng ông chẳng tội chi bỏ phí thì giờ
hưởng thụ cuộc đời. Ông vừa tập thể dục, vừa nghe tin tức buổi sáng. Ông quan
niệm, thân thể vận động, mà lòng thì vui, hơn là để tâm trống rỗng. Nhờ nghe
tin tức, mà ông không bao giờ chán nản bỏ tập. Chỉ có phất tay trong vòng nửa
giờ thôi, mà máu vận động, làm ấm nóng toàn thân.
Trước
khi tập thể dục, ông đã bắc lên bếp một nồi cháo gạo tẻ, để lửa riu riu cho khỏi
sôi trào. Khi tập xong, ông khuấy cháo cho khỏi cháy dưới đáy nồi. Khi ăn sáng,
ông mở nhạc du dương êm dịu từ máy vi tính. Ly cà phê lọc áp suất, nước sánh kẹo
đặc màu sậm, tỏa hương thơm thoang thoảng trong phòng. Ông bật đèn bàn, cầm cuốn
sách lật mau. Nhấp từng ngụm cà-phê nóng, hít sâu đầy phổi, ém hơi xuống bụng,
ông tận hưởng cái yên tĩnh của buổi bình minh êm đềm. Ông tự nhủ, đời thật dễ
thương. Tuổi già thong dong sung sướng, không phải bận tâm lo sinh kế là một hạnh
phúc lớn của nhân sinh. Mỗi khi múc cháo đặc vào tô, ông ngâm nga câu
thơ
của một người bạn:
“Vợ
cũ, chó già, tô cháo nóng
Ba
nguồn thân thiết dạt dào thương…”
Ông
ăn cháo với cá nục kho khô, mặn, cay. Thịt con cá săn cứng, thân cá cong lại,
và xương thì mềm như làm bằng chất bột. Ông húp cháo thành tiếng kêu lớn sột sột,
và hít hà vì cay. Cháo béo, vị cá mặn, bùi, thơm, tan trên thớ lưỡi. Ông thường
khen cho ông nghe: “Ngon, tuyệt vời. Cao lương mỹ vị cũng không bằng.” Ông
nghĩ, đây là cá nục, chứ có cá bống cát kho khô mà với ăn cháo, thì còn tuyệt vời
hơn.
Có
lẽ khi còn trẻ, mỗi sáng ông ưa ăn tô phở, hủ tiếu, hoặc bún bò, vì cơ thể cần
nhiều năng lượng hơn. Bây giờ già, mới biết giá trị tuyệt vời của tô cháo gạo tẻ.
Không trách chi, sách chép rằng, nhiều vị vua nhà Nguyễn thích điểm tâm bằng
cháo gạo.
Mấy
hôm nay, điện thoại cứ reo hoài. Bạn bè, bà con kêu liên miên, làm ông cảm động.
Có lẽ họ biết bà đi vắng, sợ ông buồn vì cô đơn. Con ông kêu, anh ông kêu, chị
ông kêu, em ông kêu, và cả mấy bà vợ của những ông bạn thân thiết cũng hỏi thăm
sức khoẻ hằng ngày. Họ tế nhị không nói ra, nhưng ông biết. Người nào cũng nói
chuyện rất lâu. Có người kêu hai ba lần mỗi ngày. Ông ríu rít chuyện trò, muốn
tỏ cho họ biết ông cũng đang vui, bình thường. Ông học được cái lạc quan của
sách dạy. Hoàn cảnh nào cũng tìm được nguồn vui đơn giản. Không bỏ phí thời
gian để vật vã, để buồn thương, tiếc nhớ bất cứ chuyện gì. Trời nắng thì vui
theo nắng, mưa thì vui theo mưa. Vợ có nhà, thì vui với hạnh phúc gia đình, vợ
vắng nhà, cũng vui theo cách khác, vì được yên bình, không ai cấm đoán việc nầy
việc kia, không ai cằn nhằn, không ai làm khó. Có cả trăm chuyện để làm, để
tiêu khiển. Trà, rượu, đọc thơ, sách, truyện, nhạc, máy vi tính, múa “Tài Chi”,
làm thơ, viết câu đối, nấu ăn… Chỉ sợ không có đủ thì giờ mà thôi. Có người hỏi
ông có cảm thấy buồn, cô đơn không. Ông trả lời rằng, “người tình mặt vuông”
làm ông bận rộn suốt ngày, cho ông từng niềm vui nho nhỏ, nở ra vô số nụ cười ý
nhị, dạy ông học được nhiều điều hay, lạ, bổ ích cho đời sống, cho tính tò mò của
ông. Cái máy vi tính, bị cụ bà gán cho cái tên “ngưòi yêu mặt vuông” của ông,
bà cụ ghen với cái máy nầy. Ông nói với bạn bè, tuổi nầy rồi mà còn được vợ
ghen, phải sướng và hãnh diện, vì mình cũng còn có giá lắm chứ, đâu phải là đồ
bỏ đi.
Một
ông bạn kêu điện thoại và đem đến cho ông bốn hộp thức ăn, có cá kho mặn, thịt
heo nước dừa, tôm rim, thịt bò kho. Thêm một hộp dưa chua lớn. Ông Phú định từ
chối, nhưng sợ bạn buồn, nên đành nhận, trong lòng cũng áy náy. Ông hỏi sao mà
cho nhiều quá thế. Ông bạn bảo cất vào tủ lạnh, mà ăn cả tuần. Tuần sau ông đem
đến thêm. Ông dẫy nẫy bảo, đừng đem đến nữa, tủ lạnh đã chật, đựng đầy thức ăn,
không còn chỗ chứa. Ông nói thêm, ông thích nấu ăn lấy, cũng có cái vui riêng.
Ông bạn cười, bảo ông đừng có khách sáo, vợ vắng nhà, không ai nấu, thì ăn uống
bất thường, dễ phát bệnh. Ông ém thức ăn bạn cho vào ngăn đá. Tủ lớn, nhưng
cũng đã chật lắm rồi.
Vợ
chồng một gia đình đồng hương Việt Nam khác, ở cách ông mấy căn nhà, thấy ông
đi về một mình, biết bà đi vắng. Anh chồng nói:
“Bác
gái đi vắng, thì mỗi ngày mời bác đến nhà cháu ăn cơm nhé. Nếu bác ngại, thì
cho vợ cháu thêm ít đồng tiền chợ, xào nấu nhiều thêm chút chút, cũng không mất
công gì. Chứ bác một mình, nấu nướng cũng bất tiện. Nấu nhiều không ai ăn, nấu
ít thì cũng khó. Đi ăn bên ngoài vừa đắt, vừa không hợp với vệ sinh sức khỏe”
Ông
cám ơn lòng tốt, nói rằng, khi nào thật cần, thì ông sẽ qua ăn chung cho vui.
Đứa
cháu ở thành phố xa, cách ông một giờ lái xe, đem đến cho ông bảy cái hộp nhựa,
bên trong mỗi hộp dựng ba thứ thức ăn. Vợ chồng hắn bảo, mỗi ngày đem hâm trong
lò vi-ba, ăn một hộp với cơm. Nếu ông ăn được, thấy ngon, thì hắn sẽ đem cho
ông hằng tuần. Hắn bảo rằng, tội gì mà nấu ăn. Nếu khi nào hết thức ăn, ra chợ
Tàu, mua một con vịt quay, một con gà hấp xì dầu, vài cân thịt heo quay, chia
ra thành từng gói, bỏ vào ngăn lạnh, ăn dần, cũng đỡ mất thì giờ nấu nướng. Ông
cười, hỏi đó có phải là cách nấu ăn của cháu hồi còn độc thân không. Người cháu
lắc đầu, bảo hồi đó, anh ăn đồ Mỹ, tiện đâu làm đó cho mau. Ăn hoài cũng thấy
quen miệng và cảm được cái ngon. Bây giờ nghĩ đến, không khỏi rùng mình ớn lạnh.
Có
kẽ khuyên ông nên ăn cơm tháng trong thời gian bà vắng nhà, nhưng ông nhớ lời một
người khác rằng, ăn cơm tháng ngấy lắm, chán đến độ ghét luôn cả anh chàng đưa
cơm, cứ thấy y thấp thoáng đâu đó, là trong lòng chán nản giận hờn vô cớ. Nhưng
cũng có ông bạn khác, kiếm được nơi nấu cơm tháng quá ngon miệng, không có bột
ngọt, không mặn và ít dầu mỡ. Ông nầy cho rằng, hiếm có các bà nội trợ nấu được
ngon như vậy.
Bây
giờ, ông Phú mới nhận biết, có nhiều bà con, bạn bè thương mến ông, quan tâm đến
ông, mà lâu nay ông không biết. Nhưng ông không muốn được ai thương hại. Ông
vui sướng thong dong như thế nầy, thì việc chi mà thương hại? Tại sao đàn bà ở
một mình, cũng tự nấu ăn, tự lo lắng, tại sao không ai ái ngại cho họ?
Ông
thích tự nấu ăn lấy, nấu những món giản dị, mà ngon, vừa miệng.
Mỗi
khi đi chợ, ông mở máy vi tính, tìm mục nữ công, gia chánh, dạy cách nấu ăn.
Ông ghi chú vật liệu cần thiết để nấu các món ông muốn, rồi xem thêm đoạn phim
dạy cách nấu, cho ăn chắc. Xem xong, ông lầm thầm: “Dễ ợt. Dễ như húp cháo
thánh.” Cầm danh sách ra chợ, nếu không biết mặt hàng, thì ông mon men hỏi mấy
bà. Nhờ chỉ giúp, hoặc nhờ lựa giùm cá sao cho tươi, ngon. Được một cụ già như
ông hỏi, các bà các cô có dịp làm phước, vồn vã chỉ dẫn. Có bà hỏi:
“Thế
thì cụ bà mất rồi sao? Không ai giúp cụ đi chợ? Tội nghiệp chưa!”
Ông
cười và nói đùa :
“Không,
bà nhà tôi còn khoẻ mạnh lắm. Bà ấy đang bận xem phim bộ.”
Bà
kia trợn mắt lên mà than :
“Trời
đất!”.
Ông
đùa tiếp:
“Phải
biết thương vợ chứ. Phim đang đến đoạn hấp dẫn, bỏ đi chợ thì uổng lắm”
Bà
kia nói lớn :
“Ông
cụ tốt bụng thật. Cái ông xã nhà cháu lười như hủi. Chỉ đáng đem móc mà làm mồi
câu cá sấu”
Ông
Phú cười và tiếp:
“Ấy,
ấy, không nên, đem ông chồng làm mồi câu sấu, uổng lắm. Thời buổi nầy, và tuổi
tác đã lớn, kiếm cho ra một thằng lười như hủi cũng không phải dễ đâu nhé”
Bà
kia cười và háy ông một cái.
Ông
Phú nấu canh chua tôm đúng theo máy vi tính dạy. Nấu nước với cà chua, trái
thơm, rau, hành cắt mỏng, giá, ớt, bột nấm, muối, chút đường, nước mắm. Rồi xào
sơ tôm với tàu hủ cắt lát, thả vào nồi canh đang sôi. Ông cho thêm một ít nấm
bào ngư cắt mỏng. Thế là xong. Dễ dàng. Ông múc canh, lấy một khúc cá hồi nướng,
thêm dĩa xà-lách rửa và cắt sẵn, trộn với nước sốt bán trong chai. Bữa ăn ba
món, lịch sự rồi. Bây giờ bụng đã đói lắm, thường ông chờ cho thật đói mới ăn.
Ông biết, khi đói thì ăn cái gì cũng ngon, nấu dở cũng thành ngon. Ông vừa ăn,
vừa lẩm bẩm “Ngon, ngon quá, tuyệt vời”. Ông cảm thấy ngon thật, nhưng ông biết
rõ, cái ngon cảm nhận được, phần lớn nhờ bụng đói. Bởi vậy, khi chưa đói, ông
chưa ăn.
Hôm
nay ông lái xe ra phi trường đón một ông bạn vong niên cũ từ Na-Uy sang Mỹ Quốc
thăm viếng. Gọi là bạn, nhưng họ thua ông chừng trên hai mươi tuổi. Nhờ vỏ vẻ
làm được năm ba câu thơ con cóc, mà ông được có bạn thơ khắp nơi trên thế giới.
Trẻ có, già có, đã là bạn thơ văn, thì tuổi tác nào cũng được. Họ đối xử với
nhau rất chân tình, hào sảng, dù chênh lệch tuổi tác. Ở cổng ra, có hai cái màn
hình trên cao, chiếu hình người đang sắp ra cửa quan thuế, để kẻ đi đón, nhận
được thân nhân. Ông Phú nhìn chăm chăm lên màn hình để tìm bạn. Nhìn lâu mỏi mắt,
ông gục đầu ngủ một giấc rất say, tiếng ngáy làm các hành khách ngồi kế cận mỉm
cười. Không biết ông ngủ được bao lâu, và giật mình thức giấc dậy vì có ai đó vỗ
vai ông. Ông thấy một cụ già, râu bạc phơ dài xuống bụng, tóc trắng như bông,
hai hàng lông mày cũng trắng xoá. Ông Phú vội vã chào: “ Lạy cụ ạ”
Kẻ
đó cười nói lớn:
“Bác
không nhận ra cháu sao? Cháu là Trần đây.”
Ông
Phú đứng phắt đậy ôm lấy bạn:
“Khỉ
nào! Để râu ria dài, đẹp như thế nầy, làm sao mà ai nhận ra được”
Hai
ông cùng cười vang. Ông Phú đưa bạn ra về. Đến nhà, ông bạn hỏi bà đi đâu. Ông
Phú cười nói:
“Bà
ấy mê thằng cháu ngoại quá, nên bỏ nhà đi theo nó. Thằng nhỏ kháu lắm, mới đầy
năm mà đã biết đủ mọi thứ chuyện. Cái thứ con lại, thông minh lanh lẹ lắm. Thằng
ôn dịch, cướp vợ của ông ngoại nó”
Ông
bạn có vẻ ái ngại hỏi:
“Thế
thì ai nấu cơm cho Bác mỗi ngày?”
Ông
Phú đáp lớn:
“Tôi
nấu chứ ai. Tôi có thể biết cách nấu cả trăm món. Nấu ngon không thua gì đầu bếp
nhà hàng. Nấu đúng công thức, và chế biến làm cho đậm đà, hợp với khẩu vị mình
hơn. Hôm nay, chúng ta ăn cá hấp tương gừng với nấm tươi, canh tôm cải bẹ xanh,
và rau xà lách trộn. Đủ chưa? Bảo đảm, ăn không ngon thì cho anh nọc tôi xuống
mà đánh mười hèo”.
Ông
bạn cười, nhìn ông Phú với con mắt nghi ngờ. Ông Phú cứ từ từ hâm thức ăn đã nấu
sẵn, thong thả dọn ra bàn, phải để ông bạn đói meo, mới cho ăn. Khi ngồi vào
bàn, ông bạn ăn ào ào vì đói. Ông khen:
“Không
ngờ bác nấu ngon như thế nầy, mấy bà nội trợ chắc cũng chào thua. Bác mà mở tiệm
thì mau giàu lắm đó .”
Ông
Phú cười:
“Tôi
đánh cá, bây giờ đem cơm nguội canh ôi ra cho anh, anh cũng thấy ngon miệng. Bí
quyết nấu ăn ngon, là để cho khách đói cho đắng miệng ra, rồi mới cho ăn, thì
ăn gì cũng khen ngon.”
Ông
bạn vội vã cãi:
“Cá
hấp tương gừng ngon quá trời, tôi chưa khi nào đưọc ăn cá hấp ngon như thế nầy”
Ông
Phú gõ cái muỗng vào dĩa, và nói:
“Có
thể, vì nhờ mua được cá tươi và ngon. Vào siêu thị, cứ thấy thịt, cá với giá
trên trời, thì thế nào đó cũng là thức ngon. Thiên hạ họ không ngu đâu. Mình ăn
ít, nên mua các thức ăn thượng hạng mà dùng, đừng ham mua đồ rẻ”
Buổi
sáng, ông Phú dậy sớm, loay hoay nấu cháo chay đã khách. Nấu theo máy vi tính dạy.
Ông không bỏ bột ngọt, vì không có, và cũng sợ độc không dám ăn. Nấu xong, ông
nếm thử. Ông lầm thầm than: “Dở ẹc” Có lẽ vì cháo chay, mà thiếu bột ngọt, nên
lạt lẽo. Ông lục tủ lạnh, thấy cục xúp bò mà Tây gọi là “Bui-dông” (bouillon),
ông thả vào nồi cháo, khuấy đều, rồi nếm thử nữa. Ông rùngvai, vì cháo nầy còn
dở tệ hơn nữa. Ông mở tủ lạnh, thấy mấy cây cải xanh, lấy cắt ngắn, thả vào nồi,
hy vọng nước cải ra làm ngọt cháo. Nhưng không ngờ, cháo càng tệ hơn, đã dở, mà
còn có mùi hăng hăng. Thôi kệ nó. Ráng căng họng ra mà nuốt. Nếu không thì đổ
đi, cũng không sao.
Ông
Phú pha sẵn cà phê, trà, và mời bạn ra ăn điểm tâm. Ông cưòi và nói:
“Sáng
nay ăn tạm ‘cháo ẹc’ nhá. Đáng ra mình ăn bò kho với bánh mì thì hâm mau hơn”.
“Cháo
là quý rồi. Tôi vẫn thích ăn cháo xưa nay. Lại cháo chay. Hết sẩy. Bác tài
tình. Chay mặn chi cũng nấu được”
Thấy
ông bạn ăn cháo với dáng điệu khổ sở, chậm chạp, phải nhắm mắt, nhăn mặt mới nuốt
trôi muỗng cháo. Ông Phú nín cười. Ông bạn cúi dầu, hỏi nho nhỏ:
“Hình
như bác gọi cháo nầy là cháo ẹc?”
“Đúng,
cháo ẹc”
“Sao
lại có tên là cháo ẹc”
Ông
Phú cười xòa, nói lớn:
“Vì
cháo dở ẹc, nên gọi là cháo ẹc”
Ông
bạn cười to sung sướng, nói:
“Thú
thật với Bác, tôi nuốt không xuống. Xin Bác tha cho tôi. Tôi xin nhận lỗi bất lịch
sự”.
“Tôi
cũng không nuốt trôi cháo nầy. Thôi bỏ đi. Tôi chiên cho mỗi người hai quả trứng,
ăn với bánh mì dòn, và phô-ma. Sách dạy nấu ăn, đôi khi cũng sai. Có tôi lần nấu
xôi thập cẩm, mà thành cháo hổ lốn, đổ đi thì sợ tội của trời, ăn cho hết, thì
như bị phạt cực hình.”
Hai
người vừa ăn xong, thì ông San, một bạn cũ thân thiết, từ thành phố lân cận ghé
lại thăm, vì được tin ông Trần mới từ Na-Uy sang chơi. Ông Phú đốt lò sưởi bằng
củi, lửa cháy tí tách, tro tàn bay bay trong lò. Ông nhóm thêm một lư trầm nho
nhỏ cho thơm. Dọn rượu ngọt, trà thơm, và vài thức ăn khô. Ba ngưòi bạn ngồi
quanh lò sưởi râm ran hàn huyên chuyện cũ. Nhạc hòa tấu êm dịu đong đưa. Bên
ngoài tuyết vẫn xuống đều.
Khi
cao hứng, ông bạn từ Na-Uy tằng hắng, rồi ngâm bài thơ mới nhất của ông. Giọng
trầm, ấm, ngôn từ bí hiểm. Ông Phú không khoái bài thơ lắm, nhưng cũng khen cho
bạn vui lòng, vì ông nhớ lại câu “Thượng Đế cũng còn ưa nịnh nữa, huống chi người
thế gian”.Sau một hồi nói chuyện thơ văn, ba người quay qua đề tài cuộc sống,
gia đình. Ông San nói:
“Bây
giờ về già, các bà vợ không còn thương chồng nồng thắm như xưa nữa. Họ thương
con, thương cháu hơn thương chồng. Và khi có chuyện bất bình, thì cũng khó làm
hòa hơn xưa. Hồi chưa già yếu, mỗi lần chồng làm gì sai trái, để các bà hờn dỗi,
thì cứ kéo các bà vào phòng, đương nhiên là bà chống cự lại. Đôi khi giả vờ chống
cự cho có lệ, có khi chống cự thật, nhưng chỉ cần tăng sức kéo bằng một lực cực-tiểu
ép-si-lon thôi, là đủ. Tiếp đó, cá nước vui vầy. Sau khi ra khỏi giường, là hết
giận hờn, hết trách móc, và không khí gia đình êm ấm, hòa thuận, vui ngay, rồi
sẽ được các bà nấu cho thức ăn ngon lành, béo bổ nữa. Bây giờ già cả, không đủ
sức ẵm các bà, mà có đưa được vào phòng nữa, cũng không làm ăn chi được, chỉ tổ
làm các bà cáu thêm, giận thêm.”
Ông
Phú lắc đầu cười:
“Làm
hòa theo kiểu đó, thì cứ bị các bà vợ giận hờn dài dài, mỗi ngày giận hai ba lần,
chịu chi cho thấu?”
Cả
ba ông già cùng cười với nhau. Ông bạn từ Na-Uy nói:
“Tôi
nghiệm, bác San nói có lý. Vợ chồng già, thường thiếu chuyện đó, nên cũng bớt
xuề xoà dễ dãi với nhau. Một người bạn tôi nói rằng, ông nào để cho bà vợ biết
rõ là hết khả năng sinh lý, thì cái tình nó cũng lạt đi nhiều lắm. Các bà cứ bỏ
nhà đi thăm con cháu hoài, không còn thiết tha với ông chồng nữa.”
Ông
Phú lắc đầu:
“Làm
như các bà vợ già ngu lắm sao? Mấy bà biết tỏng tình trạng sinh lý yếu kém của
các ông, có khi cả năm chưa làm gì. Giấu sao nổi? Vả lại, các bà cũng đã qua khỏi
thời hăng tiết rồi, không còn muốn cái chuyện nhớp nháp đó nữa. Vợ chồng già,
thì cái nghĩa, cái thương, nặng hơn cái tình.”
“Tôi
đồng ý với bác, các bà không cần chuyện đó nữa, và cũng biết tỏng tình trạng
sinh lý của ông chồng. Nhưng nếu ông chưa thú nhận tình trạng bi đát đó, thì
“bí mật” cũng còn trong vòng nghi vấn, chưa chắc. Nên chưa có tình trạng thờ ơ,
lạnh nhạt. Tuy các bà không cần, và không còn đòi hỏi sinh lý nữa, nhưng tận
cùng trong tiềm thức, che giấu dưới lớp dày của đạo đức, của thành kiến, của xã
hội, tuổi tác, vẫn là ám ảnh sinh lý nó kéo dài, dư âm từ thời mới dậy thì còn
sót lại, không hoàn toàn xóa bỏ được”.
Rót
thêm một ly rượu, uống cạn, ông bạn từ Na Uy tiếp lời:
“Không
cần nói đâu xa, kinh nghiệm bản thân tôi đây. Vợ chồng tôi khắng khít nhau, đêm
nào thiếu tôi, bà không ngủ được, dù chuyện gần gũi vợ chồng đã hết từ lâu.
Nhưng kể từ hôm tôi ngu dại tiết lộ cho bà ấy biết, tôi không “làm ăn” chi được
nữa, bà ấy nói là không cần, không quan trọng, thế mà rồi tình trạng đổi khác
ngay. Tôi có thể cảm được cái lạt lẽo của vợ đối với tôi. Vòng tay ôm không còn
thắm thiết như xưa, nụ hôn không nồng nàn như cũ. Ngay chính trong thâm tâm, bà
cũng không biết cái thay đổi đó. Cái ấy tự nhiên nó đến, vì không còn lực hấp lực
bí mật của kẻ khác giống tính nữa. Trời sinh ra tự nhiên, con cái, con đực, hấp
dẫn nhau. Mà cái hạt nhân của sự hấp dẫn, là tình dục được che rất kín, giấu rất
kỹ. Thế rồi sau đó, bà ấy thường hay đi thăm con cháu hơn, ở lại với cháu dài
ngày, không lý gì đến tôi nữa. Vậy, các ông già, đừng nên bao giờ thú thật với
vợ, tình trạng sinh lý bất lực của mình.”
Ông
Phú vuốt cằm trầm ngâm:
“Điều
anh nói, có đáng tin cậy không?”
“Lấy
lý trí mà xét, thì có vẻ vô lý. Nhưng đó là sự thực. Bác thử xem, bà hàng xóm đối
xử với bác, có lịch sự và tử tế hơn là đối với bác gái không? Tuy bà ấy không hề
có tí ti tình ý gì với bác, mà nếu bác có tình ý với bà, thì không chừng bà ấy
còn nổi giận lên, tuyệt giao. Ngay bản thân bác, có đối xử lịch sự, tử tế hơn với
các bà hơn là các ông không? Mà bác đâu có toan tính chinh phục bà già nào đâu?
Không lỗi tại ai, không có chi xấu. Tại ông trời bày ra thế, cho muôn loài,
muôn vật khỏi bị tuyệt chủng.”
Ông
Phú thở dài, nghiệm ra lời nói của ông bạn cũng không phải hoàn toàn vô lý. Ông
cũng từng lỡ cho vợ biết tình trạng sinh lý của ông, và từ đó, bà cũng hay đi
thăm cháu ngoại ở miền xa.
Đêm
đã về khuya, ông Sơn cáo từ ra về. Ngoài trời tuyết còn rơi. Ông Phú khẩn khoản
mời ông Sơn ngủ lại, vì không nên lái xe trong mưa tuyết giữa đêm hôm tối tăm.
Vả lại, đời dễ chi còn có đêm vui như thế nầy của ba ông bạn già, mà không bị
các bà vợ giám sát. Ông Sơn nhất định về, lý do là không nơi nào dễ chịu và êm ấm
bằng cái giường nhà mình.
Ông
bạn thơ từ Na Uy ở lại chơi ba ngày, ông Phú dạy cho cách nấu những món ngon, nấu
dễ, mau chóng. Hôm đầu, thì ông bạn vừa học, vừa thực tập. Hai hôm sau ông Phú
nằm xem truyền hình, giao cái bếp lại cho ông khách phưong xa thực hành việc nấu
nướng. Ông nầy hăng hái và hớn hở nói:
“Kỳ
nầy về nhà, tôi sẽ trổ tài nấu nướng cho bà vợ tôi lé mắt chơi.”
Hôm
nào bà vợ ông Phú cũng kêu điện thoại về hỏi thăm, rằng ông có khỏe không? Có
buồn không? Có nhớ bà không? Hôm nay ông ăn gì? Có ngủ đưọc không? Khi nào ông
cũng trả lời tích cực cho bà vui. Về mục ăn gì, thì ông khai nào là gà bát bửu,
vịt nướng chao, cá hấp tương gừng, sườn cừu nướng than, bò chiên lúc lắc, lẩu
thập cẩm, gà ác hầm thuốc bắc… Toàn là những món ngon trong các tiệm lớn. Ông
nói, ăn ngon lắm, ngon hơn cả các tiệm trứ danh. Bà hỏi ai dạy cho ông nấu? Ông
trả lời là “Người Tình Mặt Vuông Cổ Ngắn”, bà tình nhân nầy uyên bác, thông thạo,
biết gần hết chuyện trên thế gian. Bà vợ ông nổi cơn ghen lên, dằn điện thoại
xuống cái rụp.
Có
hôm làm biếng, ông ăn miếng bánh mì Mc Donald. Gặp lúc bà vợ kêu điện thoại về
hỏi ông ăn gì hôm nay. Ông trả lời là đang ăn bánh canh tôm thịt.
Hôm
nay ông đón tiếp vợ chồng người bạn từ Hawaii về đất liền chơi. Trước khi đón bạn,
ông đã lái xe qua thành phố lân cận mua sẵn các thức ăn cất vào thùng đá lạnh:
Phở, hủ tiếu, bún bò, bò kho, vịt quay, heo quay, bánh ướt, bánh hỏi, bánh lá,
bánh bột lọc. Ông mua thức ăn đủ cho mười ngày, định dành thì giờ đi chơi, thăm
phong cảnh địa phương.
Ông
bạn nầy cũng là một người thích thơ phú, chuyên làm thơ đường luật. Khi bàn về
thơ văn hiện đại, ông bạn nói:
“Bây
giờ, người ta làm thơ lung tung lắm. Nào là thơ mới, thơ tự do, thơ tân hình thức,
đủ thứ… Muốn được gọi là thơ chính thống, thì phải là thơ Đường Luật, có niêm,
có vận, có đối, có ý, có tình. Trong tám câu thôi, mà bao gồm hết toàn diện.
Không dư, không thiếu. Bọn trẻ bây giờ, viết văn xuôi rồi ngắt câu, xuống hàng,
không vần, không điệu, cũng cứ gán ép cho là thơ. Ngay cả thơ lục bát, cũng
chưa biết được căn bản quan trọng, là chữ thứ hai, khi nào cũng phải vần bằng.
Ai cũng có thể tự xưng mình là thi sĩ cả. Chán mớ đời.”
Ông
Phú cũng không rành về thơ lắm, không muốn bàn luận, chỉ đưa câu hỏi:
“
Thế thì thơ của các thi sĩ hiện đại như, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Thế Lữ,
Huy Cận, Phùng Quán,… không phải là thơ sao? Còn thơ lục bát, anh nói chữ thứ
hai phải là vần bằng, tôi không biết luật ấy ai đặt ra, và viết ở đâu. Nhưng có
lẽ cụ Nguyễn Du cũng không biết luật ấy, nên viết sai luật như câu ‘Mai cốt
cách, tuyết tình thần” và “ Khi tựa gối khi cúi đầu. Chín khúc, khi chau đôi
mày”
Ông
bạn đỏ mặt, gân cổ nỗi lên, nói lớn:
“
Tôi nói là thơ chính thống, thơ thực sự, chứ không phải viết thế nào cũng gọi
là thơ được. Anh tưởng anh giỏi lắm sao? Anh khinh tôi không thông thái bằng
anh chắc”
Thấy
thái độ hùng hổ vô lý của bạn, ông Phú hốt hoảng:
“Thôi,
thôi, tôi đâu biết chi nhiều về thơ văn đâu, chỉ nêu câu thắc mắc nhỏ. Tôi xin
rút lại câu hỏi đó.Và nếu anh có hiểu lầm mà buồn tôi, thì tôi thành thật xin lỗi.
Chuyện thơ văn, là chuyện nhỏ, chuyện tào lao, khi trà dư tửu hậu, đừng để hiểu
lầm buồn nhau, uổng lắm.”
Ông
bạn đưa tay chặt chặt giữa không khí, và gằn giọng giận hờn:
“Tôi
không hiểu lầm. Anh xin lỗi là xúc phạm đến tôi, xúc phạm nặng nề.”
Rồi
ông bạn nói thêm nhiều câu giận dỗi khó nghe khác. Mặt thì hầm hầm như đang muốn
gây gổ làm lớn chuyện. Ông Phú dằn lòng, hít vào đầy phổi, chuyển khí sâu xuống
bụng, tự bảo trong lòng: “Nhịn, nhẫn nhịn, đừng giận, đừng nói gì cả, hoà nhã tối
đa. Bạn từ xa đến chơi, đừng làm mất lòng nhau. Tình bạn cũ, nếu không vun bồi
thêm được, thì đừng làm vơi đi.” Ông ngồi yên.
Sau
một hồi to tiếng, mà không ai cãi lại, ông bạn bỏ vào phòng nằm, trùm chăn, và
tuyên bố tối nay không ăn.
Ông
Phú thở dài. Có lẽ bạn đã già nên đổi tính thành trẻ con lại rồi. Ông thầm
nghĩ, có lẽ ông cũng đã thành trẻ con từ lâu, mà ông không tự biết. Có thế bà vợ
mới chán, bỏ ông đi thăm cháu ngoại. Ông Phú xuống bếp, hâm bún bò, làm ba tô lớn.
Bỏ rau cắt nhỏ, bắp chuối thái mỏng, hành lát, rau răm, thơm, và múc nước cùng
thịt heo, thịt bò vào tô. Lấy khăn ăn và dọn lên bàn. Ông hé phòng mời bạn ra
ăn nhiều lần, ông bạn gắt: “Đã bảo không ăn mà”.
Bà
vợ ông bạn vào dỗ dành hơn mười lăm phút, ông mới ra ngồi vào bàn, mặt còn nặng
nề, không vui. Đang ăn, bà vợ bạn nói:
“Bún
bò bên nầy lạ ghê, chỉ có thịt, nước, và rau thôi, không có bún. Chác đây là lối
ăn sáng tạo mới.”
Ông
Phú giật mình, chạy vào bếp, thấy rổ bún đang nằm trên chạn. Thì ra, vì thấy tô
đã đầy vun, ông tưởng đã có bún rồi. Ông mang bún ra, cả ba người cùng cười.
Bây giờ mới thấy nụ cười trên môi ông bạn, làm ông Phú yên tâm.
Sáng
hôm sau, ông bạn nhất định đòi đi, không chịu ở lại một tuần như đã dự định.
Ông Phú cầm chân mãi, mà không được. Ông nói, thức ăn đã mua sẵn cho một tuần,
các người không ở lại, thì ai ăn cho hết?
Tiễn
vợ chồng bạn ra khỏi nhà, ông quay vào, vừa buồn, vừa mừng. Bạn bỏ đi thì buồn,
nhưng mừng vì khỏi phải chịu đựng cái chướng ách, kỳ cục của bạn. Ông nghĩ, biết
đâu, chính ông cũng chướng kỳ, mà ông không hề biết.
Ông
Phú gọi điện thoại ngay cho bà vợ, nói với bà cái điều mà truớc đây ông không
muốn để bà biết:
“Thôi,
bà về đi, tôi nhớ bà lắm rồi. Tôi có làm gì cho bà buồn, thì bỏ qua nghe, tôi
xin lỗi một vạn lần”.
Bên
kia đường dây, tiếng bà vợ ông cũng ưót mềm, như nói trong nước mắt:
“Tôi
cũng nhớ ông lắm. Nhiều hôm ngủ không được.Tôi sẽ về chuyến bay sớm nhất, ông
nhớ đón tôi tại phi trường nhé!”
Ông
Phú nghe lòng khoan khoái, mở nhạc êm dịu, nằm trên ghế trên bành và nhớ đến lời
ông bạn từ Na Uy rằng: “Vợ chồng già, phải thương yêu nhau nhiều hơn, tử tế với
nhau hơn, nhường nhịn nhau, dịu dàng với nhau hơn, để bù đắp vào cái thiếu tình
dục mà trời đã lấy đi.”
Ông
chìm vào giấc ngủ an bình và chờ điện thoại reo để biết giờ đi đón vợ.
Tràm Cà Mau
No comments:
Post a Comment