Năm
nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba
mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực không mà hôm đó cả nhà đều
phải làm công chuyện tối mắt tối mũi. Đến nỗi, nhắc tới Tết là thấy chữ “Ba
Mươi” chình ình, choán chật cả ký ức.
Đó
là cái ngày duy nhất trong năm cả nhà sum họp mà không sum họp. Ai nấy túi bụi
với chuyện của mình. Cánh đàn ông con trai (nói cánh cho ham vậy, chỉ hai người
thôi, chứ mấy), cánh này quan trọng, lãnh phần dọn dẹp, lau chùi, làm đẹp nhà.
Nào là quét mạng nhện trên trần, lau cửa kính, tủ bàn, kỳ cọ mấy cái lư đồng,
đem phơi nắng. Mệt phờ. Lúc dọn dẹp, bày biện bàn thờ thì mùi chiên xào dưới bếp
bay lên, trời, lại phải bỏ ngang công việc đang làm dở, chuẩn bị mâm bàn cúng
rước ông bà. Xế chiều rồi, chớ giỡn…
Cúng
kiếng xong, cánh đàn ông tiếp tục chuyển sang đánh trận… ngoài sân, còn má vẫn
hì hụi trong bếp, vừa trông chừng nồi thịt kho, vừa làm thịt nguội, sau lưng
má, củ cải với dưa leo đang chờ tới phiên mình trở thành món… dưa chua. Tết của
má dài thăm thẳm, phải kể từ hôm tát đìa bắt cá làm mắm, xẻ khô. Cá còn phơi
trên mấy hàng bông bụp má bắt tay vào làm củ kiệu. Hồi chị còn nhỏ, má lãnh
luôn phần làm mứt, nướng bánh kẹp, bánh bông lan. Chị lớn, chị giành lấy, nói để
chị làm, nên cả ngày ba mươi tụi nhỏ không thấy chị liếc, chị rầy, bởi chị cũng
cắm đầu làm mứt, nào là mứt chùm ruột, mứt gừng, không biết ai ăn cho hết mà ôm
đồm, vừa ngào chảo mứt dừa vừa chạy ra coi mớ mứt tắc (quất) phơi ngoài sân
không biết có kiến bò lên không. Cái dáng chị khum khum, tay đấm lia lịa vào
lưng, than mỏi quá nhưng vẻ mặt thì tươi rói, ngây ngất. Giống hệt cả nhà, miệng
kêu cực mà hớn hở, như thể ngày cuối năm này không có việc gì làm mới là niềm
đau khổ lớn.
Tụi
con nít cũng bận lắm, chạy đi chạy lại, “lấy dùm ba cây bàn chải”, “chặt dùm má
mấy trái dừa”, “ê, coi chừng mấy con chó chạy giỡn làm đổ mớ mứt đang phơi…”,
“chạy đi mua cho má mấy bịt muối, cho đầy hũ, nhỏ ơi”. Trên đường chạy đầu này
đầu nọ, tụi con nít không quên thò đầu vô tủ vuốt ve mấy bộ đồ mới, ứa nước miếng,
trông mau tới chiều để mặc, nên có khi má kêu hai ba lần mới chịu đi làm, bịu xịu
càu nhàu trong bụng, không biết ông trời sinh ra ba mươi Tết làm chi, công chuyện
quá trời.
Mà, việc nào cũng quan trọng, quan trọng khủng khiếp, không thể để đến ngày
mai. Tuyệt nhiên, chẳng ai chần chừ, “để làm sau..”. Cứ như là không còn ngày
mai nữa, cả nhà làm cho bằng hết việc, đến xanh mặt, mướt mồ hôi, như ai đó đuổi
đằng sau, như làm bây giờ để mai mốt không động tay vào bất cứ việc gì nữa.
Tụi con nít buồn cười, vì cữ kiêng lắm thì chỉ thảnh thơi được ngày mùng Một, bữa
sau ba má cũng ra vườn tưới rau, chị nhất định phải rửa chén, giặt đồ, anh đến
cơ quan, mọi người trở lại với công việc thường ngày của mình, Ba Mươi cũng đâu
có thay đổi được gì mà làm muốn nín thở?
Tụi
nhỏ không biết, thật sự của Tết là bữa ba mươi này. Khi tụi nhỏ mặc bộ đồ mới
đi khoe dài dài xóm, khi ba và anh tắm táp xong ra hàng ba ngơ ngẩn ngắm hoa
sao nhái đốt lửa vàng run rẫy trước sân, khi má nhốt than trong những bếp lửa
tàn, khi chị đứng chải tóc trước gương, thì Tết đã chớm hết, Mùng Một, Mùng Hai
là Tết phai; Mùng Ba Mùng Bốn Tết tàn.
Tụi nhỏ không biết, mãi về sau, khi lớn lên, trong ký ức Tết ấu thơ, những ngày
mùng rất nhạt, đơn điệu, chỉ chơi và chơi. Nhưng bữa ba mươi luôn sống động,
lung linh những mồ hôi, những nụ cười, những khoan khoái, những ngọt
ngào…"
No comments:
Post a Comment