________________
Hà
Việt Hùng
Mất khá lâu tôi mới tìm được hai chữ “cà phê” trong Từ Điển Hán Viêt của Thiều
Chửu (café theo tiếng Pháp, coffee theo tiếng Anh). Thiều Chửu cho nghĩa 咖啡(gia phi hay già phê) là cà phê, cây cà
phê. Cả hai chữ đều có bộ khẩu 口.Thì
ra. anh chàng Tầu tham lam, hợm hĩnh, láu cá, cái gì cũng muốn có hay copy của
người khác mà có.
Nhờ có thời gian ở Vĩnh Long, Vĩnh Bình và Chương Thiện, “ông thầy” học của “đệ
tử” những cách gọi cà phê bằng tiếng Tầu, khiến chủ quán, dù là người Tầu thật
hay lai 70 đời, cũng phải thắc mắc, kinh ngạc và kính nể, không biết người
khách này học tiếng Tầu ở đâu. Vào quán, muốn uống cà phê, cứ gọi một cái xây
trừng (cà phê đen nhỏ ) hay một cái xây bạc xỉu (cà phê sữa nhỏ) là xong. Có thể
người bán thuộc lớp người mới, không hiểu xây chừng hay xây bạc xỉu là gì,
nhưng điều đó không quan trọng. Chỉ cần chứng tỏ ta là người… biết tiếng Tầu là
được rồi. Bạc sỉu (tiếng Hoa 白小, bạch
và tiểu, âm Tầu là bạc và sỉu có nghĩa “trắng và nhỏ”, xuất phát từ vìệc uống
cà phê của người Việt gốc Quảng Đông, bên Tầu, phổ biến ở miền Nam VN, như cà
phê sữa, nhưng phần sữa nhiều hơn, cà phê ít hơn). Còn nữa, nhưng, xin lỗi, tôi
quên mất rồi.
Trước tháng Tư 1975, gần như sáng nào tôi cũng ra quán chú Ba Phèng ở đầu hẻm uống
cà phê. Người ta gọi chú là chú Ba Phèng, tôi cũng bắt chước gọi theo. Không ai
biết tên thật của chú Ba là gì, cứ goi là chú Ba hay chú Ba Phèng bán cà phê,
nghe thân thiết như người trong một gia đình. Nghe nói vợ chồng chú Ba là người
Minh Hương, dân trong xóm ai cũng qúy. Minh Hương là tên gọi một nhóm người Hoa
ở phiá Nam (Việt Nam). Minh Hương có nguồn gốc từ đời nhà Minh, nhà Thanh ở
Trung Quốc, sau, vì những vụ xáo trộn chính trị, khiến họ phải lưu vong qua các
nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Ta thường gọi sai họ là Tầu lai. Vì sinh
sống dài ngày trên đất Việt, họ nói tiếng Việt rất sõi, có khi y như người Việt.
Vợ chồng chú Ba Phèng ăn ở với nhau đã lâu, nhưng không có mặt con nào.
Cuối năm 1980, tôi ở rừng về, vẫn tiếp tục uống cà phê chú Ba. Cà phê chú Ba
hình như có cái gì đó thân thiết không thể rời bỏ.Trong lúc đang nặn đầu nặn óc
tự tìm công việc làm mới thích hơp với mình, tôi thấy ghé uống cà phê chú Ba
cũng như một giải quyết cho mình vậy. Không phải vì chú Ba lấy rẻ, mà là vì
quán chú Ba gồm toàn những người quen mặt từ trước. Nào là bác Sáu Rựa, chú Tư
Xích Lô, bà Năm Trầu, thằng Sáu Đình Đám, Thím Bẩy Toét… Ai cũng biết nhau, ra
vào bình dân, không phải đóng bộ này nọ mất công. Không ai để ý nhau. Thế là
tôi thích rồi.
Nhà vợ chồng chú Ba ở trong hẻm gần cây cầu gỗ. Cạnh đó là một bãi rác bự tổ chảng.
Mọi người thấy vợ chồng chú Ba hiền lành, tối ngày mắc bận ở ngoài quán, nhà
thường không có người ở, nên tới đổ rác ì xèo mỗi ngày. Được cái cô chú Ba cứ tỉnh
bơ. Ngửì rác thối là mọi người cùng ngửi hết, sợ gì? Nghĩ cũng tội, vợ chồng
chú Ba bán cà phê gần như suốt ngày, tối về còn phải ngửi mùi rác thối bốc lên
nữa. Nào là xác chuột chết, mèo chết (không có xác chó chết, vì sau 1975, có
người đã lượm mất rồi), nào là gìấy má vụn, nào là bao túi nhựa đựng đồ xanh,
vàng, trắng, đỏ… Khi nào đống rác to cao lên tổ bố hay nhìn khó coi, người dân
trong xóm lại đẩy nó xuống con sông gần đó, cho nó theo con nước lớn lênh đênh.
Thiệt là tiện lợi siêu phi thường. Vợ chồng chú Ba thích nhất ngày đó, vì không
còn bị mùi hôi thối hành hạ lỗ mũi nữa. Người VN có nhiều sáng kiến, rất đáng
nhận bằng khen treo trong nhà.
Từ khi có quán chú Ba, ngày nào anh công an khu vực tên Bình cũng đến thăm hỏi
khu phố, nhất là vào buổi sáng. Mỗi lần ảnh ghé qua hay chui vào một nhà nào
đó, ảnh đều ghé thăm vợ chồng chú Ba trước, làm một ly cà phê đen nóng cho ấm bụng
cái đã rồi mới đi đâu thì đi. Lẽ dĩ nhiên ảnh uống cà phê cứ quên trả tiền hoài
mà chú Ba, để giữ nồi cơm, lại không dám đòi. Đi đến đâu, miệng ảnh cũng nở
toét ra, không như ngày xưa, mặt cứ lầm lầm lì lì, thấy mà ghét. Cái quán cà
phê của chú Ba là “điểm giao liên” đầu tiên trong khu phố. Chú Ba “mở” quán ở đầu
hẻm rất tiện. Dưới cái bảng “quảng cáo” xanh trắng “Khu Phố Văn Hóa” là cái
quán cà phê của chú Ba, không lẫn vào đâu được. Đi đâu mọi nguời thường hay tạt
vào, nói dóc vài ba câu rồi mới về nhà. Đó là một thứ văn hóa không thể thiếu
trong đời sống thường ngày.
Gọi là “quán” cho nó sang, chứ thật ra, “quán” chú Ba chỉ có mấy cái bàn mộc, mấy
cái ghế đẩu, cũng để mộc, thấp cũn cỡn cho khách ngồi. Uống cà phê ở quán chú
Ba, ít ai để tâm đến cái bàn, cái ghế. Bàn ghế thế nào cũng đươc, miễn là ngồi
được, uống cà phê được, thì thôi.
Ngày nào cũng vậy, chú Ba ra quán lúc 3-4 giờ sáng, nấu nước, bầy “hàng”.
“Quán” chú Ba có mấy cái siêu đất rất ngộ. một lô “phin” pha cà phê làm bằng vải
mỏng, người ta quen gọi là bí tất hay vớ (dzớ). So sánh như vậy cho thêm vui,
chứ ai lại lấy dzớ pha cà phê cho khách bao giờ. Nhưng cà phê không pha bằng
phin (filter) mà phải pha bằng vợt, rót vào cái siêu đất, rồi lại rót cà phê từ
cái siêu đất vào một cái ly. Thế là đã có một ly xây chừng ngon…đáo để. Vợ chồng
chú Ba bán đến 2-3 giờ chiều thì lo dọn dẹp.
Từ tờ mờ sáng đã thấy chú Tư ra quán chú Ba. Chú Tư có lối ngồi và phong cách uống
cà phê đen rất đặc biệt của người cao tuổi miền Nam. Mới 4-5 giờ sáng, mặc dù
trời còn lạnh, chú cứ thản nhiên như không, người xoay trần, ngồi theo kiểu “nước
lụt” (chồm hổm) trên chiếc ghế mộc, tay phải chú khoắng rất nhẹ chút đường
trong muỗng, rồi đổ một phần cà phê vào dĩa, đưa lên miệng uống. Các cử động của
chú rất nhẹ nhàng, thuần thục, chứng tỏ chù Tư đã làm việc này từ lâu rồi. Chú
Tư thích uống cà phê đen bằng dĩa hơn bằng ly hay bằng tách. Tôi đoán chú làm
như thế là muốn cho cà phê mau nguội, vừa uống hơn. Có lẽ uống cà phê đen bằng
cách đổ ra dĩa chỉ có ở VN.
Sau khi húp ngụm cà phê đầu tiên, chú Tư quay qua quay lại, có ý tìm một người
bạn thâm giao nào đó, sửa lại chỗ ngồi, chú mới nói lớn cho mọi người trong
quán cùng nghe, thôi thì đủ thứ chuyện trên đời, khi thì về chính trị, khi thì
về kinh tế, xã hội, văn hóa. Không ai tài nào biết trước được. Nhưng dù đề tài
nào, chú Tư cũng tỏ ra mình là người rành rẽ, từng trải, có kinh nghiệm. Đã nhiều
lần tôi bị mê mẩn bởi câu chuyện của chú, không dứt ra được.
Sau phần “nói chuyện” một mình, chú Tư lại hớp một chút cà phê thấm giọng, chú
lại nói tiếp như sợ ai nói tranh mất. Nói tranh sao được, vì gần như chuyện nào
chú nói, cũng đòi hỏi sự từng trải,hay kinh nghiệm. Gần như không ai dám mở miệng,
chỉ ngồi nghe thôi. Nghe chú nói là đủ đã thèm rồi.
Ngày nào cũng vậy, chú Tư “uống” cà phê đến 8-9 giờ sáng mới xong. Chú Ba không
bao giờ nói gì. Có chú Tư, quán thêm vui, nhất là chú có người kể chuyện cho
nghe.
Lúc chú Tư đứng lên ra về, mặt trời đã lên cao. Bóng chú in siêu siêu trên nền
xi măng dẫn vào nhà. Chú lau qua chiếc xích lô, đóng cửa nhà, rồi nhẩy lên xe,
đạp đi.
Hà Việt Hùng
11-2016
No comments:
Post a Comment