Wednesday, November 16, 2011

Một đời người qua mấy vần thơ Thi sĩ Kiên Giang bỏ phố về rừng!

Nguồn : Thời Báo online Toronto






Nguyễn Phương

Vừa qua thi sĩ Kiên Giang được Câu lạc bộ Thơ ca của Nhà văn hóa Thông tin quận Phú Nhuận tổ chức kỷ niệm sinh nhựt 81 tuổi và 65 năm làm thơ của anh. Tôi gởi email chúc mừng. Kiên Giang gởi cho tôi một bài thơ dài tràng giang đại hải và bốn câu thơ mới sáng tác nhân lễ sinh nhật 81 tuổi vừa qua, ngoài ra còn một câu ngắn gọn: "Gởi anh chị Nguyễn Phương bài thơ "Tìm Nắng Trong Đêm" để anh biết qua tình trạng gia đình của tôi trong những ngày cuối đời. Vẫn nhớ ơn anh chị từng nhiều phen giúp đỡ, cứu nguy. Kiên Giang".
Tóm tắt tiểu sử của Thi sĩ Kiên Giang: "Tên thật là Trương Khương Trinh, sinh năm 1927, tại Rạch Giá, Kiên Giang. Học hết lớp 12, tham gia kháng chiến chống Pháp, làm phóng viên báo ở khu 9. Về thành Saigon, viết báo cho tờ Dân Chủ Mới, Tiếng Chuông, làm thơ đăng báo.
Nhà báo Nguyễn Chương, giới thiệu thi sĩ Kiên Giang với bài thơ Xe Trâu của anh như sau: "Kiên Giang sinh ra trong gia đình nghèo. Cha đi phát cỏ mướn, mẹ thì kéo xe trâu lấy tiền mướn thầy dạy ông ăn học. Chiếc xe trâu kéo cỏ, cũng là nơi ông nằm ngủ, ăn học. Cả cuộc đời cha mẹ ông đã tần tảo để đổi lấy chữ nghĩa cho ông và hướng ông theo nghiệp thi ca nên ông đã đúc kết đời mình bằng các câu thơ:
Từ lối mòn xưa ra đại lộ,
Đường đời hoa nở vượt chông gai
Kết duyên sân khấu, duyên văn học
Nửa thế kỷ qua xế bóng rồi.
Sau lời giới thiệu vào đọc thơ của nhà báo Nguyễn Chương, các thi nhân ái mộ thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà ngâm một số bài thơ mà họ thích như bài Xe Trâu, Tiền và Lá, Khói Trắng:
Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ
Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân,
Khói trắng lên trời như tóc bạc
Con ngờ khói tóc quyện mây Tần.
Thơ của Kiên Giang có những câu như ca dao: "Ong bầu vờn đọt mù u, Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn". Các nhà phê bình thơ đều cho là thơ của thi sĩ Kiên Giang bình dị, mộc mạc, mang hơi hướm của người đồng quê miền Nam nhất là miệt vườn Hậu Giang. Tuồng cải lương của soạn giả Kiên Giang cũng rất ăn khách nhờ mang đậm chất thơ như tuồng Áo Cưới Trước Cổng Chùa, Người Đẹp Bán Tơ, Ngưu Lang - Chức Nữ, Sơn Nữ Phà Ca...
Trong đêm văn thơ được Nhà Văn Hóa Thông Tin Phú Nhuận tổ chức vinh danh 65 năm làm thơ của thi sĩ Kiên Giang, những người yêu mến thơ của Kiên Giang sửng sốt khi anh lên đọc bốn câu thơ mới sáng tác, xem như tổng kết cuộc đời của thi sĩ chân quê miền Nam, thi sĩ Kiên Giang:
Chiều tàn cô độc, sống cô đơn
Tan nát mấy lần chuyện vợ con
Sự nghiệp chỉ còn mồ bản thảo
Trận đời thua trắng giá tâm hồn.
Có người nói là cuộc đời của nhà thơ không mấy khấm khá, cái nghèo đói túng quẩn như món nợ tiền kiếp nên trong thơ của Kiên Giang không thấy bóng dáng của sự giàu sang sung túc, không có cuộc sống ấm no hạnh phúc với vợ con mà thơ của Kiên Giang gồm toàn những lời bi thiết của kẻ thất cơ lở vận, hận đời, hận mình!
Và người ta nhắc những câu thơ than thân trách phận dù lời thơ là nói về kỷ niệm thả diều thuở ấu thơ của Kiên Giang:
Cái thú thả diều trên bãi cỏ
Nay là kỷ niệm của ngày xưa
Đời ta như cánh diều tơi tả
Đứt nát tơ lòng giữa gió mưa.
Thật ra không phải cuộc đời của thi sĩ Kiên Giang lúc nào cũng đói nghèo, không kiếm ra tiền để sinh sống đàng hoàng như những văn nhân, thi sĩ, soạn giả đồng thời với anh. Phải nói là trước năm 1975, cũng như các nghệ sĩ và soạn giả khác sống trong thời hoàng kim của sân khấu cải lương, Kiên Giang có số thu nhập hằng tháng rất cao, nếu so sánh với lương tháng của công chức hay nhơn viên các xí nghiệp lớn ở Sài gòn.
Soạn giả Kiên Giang là soạn giả thường trực của các đoàn hát lớn như Đoàn hát Thúy Nga, đoàn Bích Sơn Ngọc An, đoàn Thanh Minh Thanh Nga... Kiên Giang cũng là soạn giả độc quyền của hãng dĩa Hồng Hoa (hãng Asia đổi tên), tuồng của Kiên Giang hát trên sân khấu được hãng dĩa Hồng Hoa, Lam Sơn thu thành bộ tuồng cải lương 8 dĩa. Kiên Giang còn là Trưởng ban Mây Tần Đài Phát Thanh Sài gòn và ký giả kịch trường của nhật báo Lẽ Sống.
Nên biết là lương mỗi đêm của soạn giả thường trực của đoàn hát cải lương là 200 đồng, tính luôn các suất hát trưa chúa nhựt, mỗi tháng tiền lương của soạn giả thường trực là 6.800 đồng. Tiền contrat soạn giả độc quyền của hãng dĩa là 5.000 đồng, mỗi bài vọng cổ thu dĩa được trả 1.000 đồng. Tuồng cải lương 8 mặt dĩa là 8.000. Tiền bản quyền tuồng cải lương được hát mỗi đêm là 6 phần trăm trong tổng số thu, nếu hát ở Rạp Hưng Đạo, bán vé complet thì tiền bản quyền một suất hát ít nhất là 2.400 đồng. Nếu không có tiền bản quyền tuồng hàng đêm, chỉ cộng tiền lương soạn giả thường trực, tiền lương hãng dĩa, tiền lương ký giả nhật báo và tiền lương trưởng Ban Mây Tần, mỗi tháng thu nhập của Kiên Giang không dưới 12.000 đồng. Đó là thời điểm từ năm 1960 đến năm 1967 (trước Tết Mậu Thân 1968).
Các soạn giả thường trực đều có nhà, có xe hơi và có cuộc sống vật chất hơn hẳn những công chức hay nhân viên xí nghiệp (không kể các công chức có những thu nhập ngoại lệ nhờ ở quyền chức).
Sau năm 1975, khi miền Nam bị giải phóng chiếm, mọi cuộc sống của mọi tầng lớp dân chúng đều bị đảo lộn. Không kể những gia đình của sĩ quan quân đội Cộng Hòa và các viên chức chánh phủ bị tập trung cải tạo, các văn nghệ sĩ, ký giả báo chí, nhà văn, soạn giả đều nhất loạt bị cấm hành nghề. Một số nhà văn, thi sĩ, nhà báo và soạn giả bị bắt đưa đi trại cải tạo trong nhiều năm (nhà văn Thái Thủy, Dương Hùng Cường, Doãn Quốc Sĩ, ca sĩ Thành Công, ca sĩ Chín Sớm, nghệ sĩ Huyền Trân, soạn giả Mộc Linh, soạn giả Ngọc Điệp...).
Soạn giả Kiên Giang cũng như tất cả các soạn giả của Sài gòn cũ bỗng nhiên bị thất nghiệp, tuồng cũ hay tuồng mới đều không được cho hát, có nghĩa là mất hẳn nguồn thu nhập bằng tiền bản quyền. Lương soạn giả thường trực cũng mất, lương ký giả, lương Trưởng ban văn nghệ Đài Phát Thanh không còn, tiền thu thanh dĩa hát cũng mất luôn... nói chung đang là một người có lương hằng tháng không dưới 12.000 đồng, bỗng nhiên mất hết và không thấy được ngày nào sẽ có được một thu nhập mớì để giải quyết cuộc sống cho mình và cho cả gia đình.
Soạn giả Kiên Giang cũng như chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới bằng cách bắt đầu bán dần đi tư trang, vàng bạc, những gì có thể bán được để đổi lấy thức ăn, gạo thóc. Các đoàn hát tập thể được thành lập, trưởng đoàn hát là cán bộ của Sở Văn Hóa đưa xuống, đó là những đảng viên cộng sản, họ là những ông bầu gánh hát mới, có toàn quyền thu, chi và chọn tuồng để hát (tất nhiên là tuồng hát từ miền Bắc đưa vào và những tuồng của các cán bộ cộng sản trong các chiến khu đưa ra). Nghệ sĩ cũng do nhà nước bố trí, nghệ sĩ nào được hát, nghệ sĩ nào bị cấm hành nghề (các nghệ sĩ Hùng Cường, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Ngọc Giàu bị cấm hành nghề. Sau khi Thanh Nga mất, Bạch Tuyết mới được cho hát lại, thay thế Thanh Nga để hát vở tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga).
Riêng các soạn giả thì chịu đựng đói khổ là tình trạng chung vì các soạn giả Sài gòn cũ bị cấm hành nghề trong 10 năm. Các soạn giả Thiếu Linh, Nguyễn Phương, Hoàng Khâm, Kiên Giang, Hoa Phượng đều cho nhiều con vượt biên sang định cư ở các nước Pháp, Hoa Kỳ, Canada, Úc (trong những năm 1978, 1979, 1980)
Năm 1980, chị Mai Thị Thoa, vợ của Kiên Giang đem thế chấp hai căn nhà số 80 - 82 đường Phạm Thế Hiển cho ông Nguyễn Hữu Hạnh, Chủ nhiệm Hợp Tác Xã Tín Dụng Phường 2, Quận 8 để lấy tiền lời sinh sống trong thời gian mà Kiên Giang phải chạy lên tỉnh Tây Ninh ở để viết tuồng cho cán bộ Sở Thông tin văn hóa đứng tên hầu được chia chút đỉnh tiền bản quyền để sống cầm hơi.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh, chủ nhiệm Hợp Tác Xã Tín Dụng Phường 2 quận 8 bị tù vì thâm lạm tiền của hội viên, Quận ra lịnh giải tán Hợp Tác Xã Tín Dụng, số tiền của dân đóng vô đó bỗng mất hết. Hai căn nhà số 80 - 82 của Kiên Giang cũng bị phát mãi. Soạn giả Kiên Giang từ Tây Ninh được tin vội về Sài gòn thì nhà bị lấy mất, cô vợ Mai Thị Thoa cũng bỏ đất Sài gòn đi biệt tăm.
Ngày 31 tháng 8 năm 1991, nhà thơ Kiên Giang chống án lên tòa xin xét lại, Kiên Giang mới thật sự là chủ của hai căn nhà kể trên nhưng quận 8 đã đấu giá phát mãi hai ngôi nhà đó xong rồi. Đơn kháng cáo của Kiên Giang thiếu điều kiện đầu tiên (tiền đâu) nên bị ngâm tôm, Kiên Giang trở thành kẻ không nhà.
Sau khi bị đuổi nhà, Kiên Giang sống lây lất ở hành lang hí viện vài tháng, không nơi nào người ta cho anh ở yên. Sau cùng anh đến khu đất hoang ở cuối đường Âu Dương Lân quận 8 để xin tạm trú. Khu đất hoang này được dự định để cất khu duỡng lão nghệ sĩ.
Vì không tiền bạc và không có cách nào khác nên thi sĩ Kiên Giang đành chọn 4 gốc cây bạch đàn trên khu đất đó thay cho cột nhà, anh dùng vải tang phúng điếu mẹ của anh và các manh vải cũ lấy từ các banderole quảng cáo để dựng vách nhà, thay mái lá bằng những miếng tôn của bà con lối xóm cho. Thế là anh có một căn nhà để tạm trú, dịp này anh viết mấy câu thơ:
Lợp mái lá, dừng manh vải cũ
Nên mưa nhòa ướt ảnh bàn thờ
Mẹ từ đáy mộ về trong mộng
Trầm uất thương con giữa xác xơ.
Không sa mạc vẫn làm du mục
Chân lạc đà dừng tạm bãi hoang
Mai mốt “người ta”hăm đuổi nữa
Kiếp không nhà lại sống lang thang.
Bàn ghế duy nhứt trong nhà là bàn thờ mẹ, đóng bằng ván tạp của lối xóm cho. Kiên Giang lại làm thơ:
Bàn thờ mẹ kê đầu tủ sách
Đóng cây ván tạp, bạn láng giềng
Má khổ suốt đời, con lận đận
Thương con hồn mẹ chắc linh thiêng.
Thơ của anh nói “tủ sách” nghe cho văn vẻ, thật ra tủ sách đó là miếng ván vụn, gát trên mấy viên gạch, kê cao, để các bao bàng, giỏ xách đựng bản thảo của anh. Mỗi một cơn mưa lớn là nước chảy lênh láng trong ngôi nhà đó, phải kê cao thì tủ sách của anh mới không bị bà thủy cuốn đi.
Năm này, Kiên Giang làm quen với một người đàn bà góa (tên Dương Thị Bạch Tuyết) có cô con gái riêng 6 tuổi tên Hồng Uyên. Cô Bạch Tuyết bị chồng bỏ, anh thì bị vợ bỏ, hai nửa mảnh đời dang dở xáp lại với nhau cho cuộc đời chung bớt tẻ lạnh. Cô nàng Bạch Tuyết cũng là kẻ lang thang không nhà, cha là một quân nhân Úc tử trận ở Việt Nam, mẹ cũng chết sau đó vài năm, cô gái lai Úc này không có thân nhân ở Việt Nam mà cũng chẳng có giấy tờ chứng minh gốc Úc châu, chỉ có mắt xanh, mũi lỏ, nước da trắng, không biết nói tiếng Anh nên đành sống bằng nghề bán khoai lang luộc. Cô có giọng ngâm thơ nghe được được nên khi Kiên Giang mất vợ thì Kiên Giang đưa mẹ con của cô Bạch Tuyết về sống chung.
Năm 2000, tôi về thăm quê hương, gặp Kiên Giang, anh đưa tôi về nhà của anh do quận 8 cấp cho ở hẻm Ba Đình, nhà này chỉ là một cái chái nhà ghép bên cạnh một ngôi nhà khác của người ta, bề ngang chỉ có một thước bảy, bề dài bảy thước như một cái khoang ghe tam bản, vừa là nhà tiêu, nhà bếp, khạp đựng nước và chỗ ở cho ba người.
Kiên Giang viết bốn câu thơ dán trên vách:
Giết chậm, giết mòn là thượng sách
Giết không gươm giáo mới siêu phàm
Cướp nhà đất, cắt lương, tăng đói
Tung hỏa mù đen, giả khói trầm.
Nếu Kiên Giang ở miền Bắc trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm thì với những bài thơ phẫn nộ, chửi xiên xéo chế độ cộng sản trên đây, chắc chắn Kiên Giang sẽ bị cộng sản bắt bỏ tù như Nguyễn Bính đã từng bị. Nguyễn Bính bị bao vây kinh tế đến độ khi anh lui về Nam Định ẩn cư mà vẫn bị chết đói vì chúng nó không cho ai mướn Nguyễn Bính, không có lương, gạo và không ai dám giúp đỡ cho Nguyễn Bính.
Các bài thơ của Kiên Giang than thân trách phận và nói lên cái mặt trái của xã hội Việt Nam dưới quyền cai trị của cộng sản... những bài thơ đó chỉ lưu truyền trong các bạn thân chớ chưa được in trên báo hay phát trên internet, vì vậy cộng sản chưa bắt bỏ tù Kiên Giang. Chúng nó truy bức, kiểm duyệt không cho ra tuồng tích và không cho Kiên Giang có cơ hội làm gì để có thu nhập ngoài số tiền phát hằng tháng gọi là lương hưu. Lương hưu của Kiên Giang là hai trăm ngàn đồng Việt Nam, nếu đổi ra tiền Canada thì chỉ độ mười bốn (14) đô la để cho một gia đình ba người sống trong một tháng.
Kiên Giang trao cho tôi bài thơ Tìm Nắng Trong Đêm, bài thơ diễn tả cuộc sống của anh và vợ con.
Ba hát, Má ngâm, con chép lại,
Bài thơ Tìm Nắng viết trong đêm
Mai khôn lớn, thấu tình cha gởi
Một tấm lòng cha mấy nỗi niềm.
Con, vợ ngủ bên cầu vệ sinh
Trong nhà ổ chuột, hẻm Ba Đình
Gối chăn, nhà bếp cùng tanh tưởi
Không ở tù sao chịu ngục hình.
Di ảnh Mẹ, sao đôi mắt ướt
Từ mồ sâu đã trở về thăm
Khói hương hiu hắt: mây tang úa
Nói dối: Mẹ ơi! Đó khói trầm.
Thuở khai hoang ở nhà kê tán
Bồ lúa, hàng ba tắm ánh trăng
Hủ gạo nay không còn hột tấm
Thua kẻ kêu cơm ở vệ đường.
Tôm luộc co mình cong dáng ngủ
Duỗi chân e sập đổ bàn thờ
Giống tù nhân nhốt “xà lim” tối
Muỗi rệp tha hồ hút máu thơ.
Không giường nệm, vợ con nằm đất
Hơi lạnh không xua nắng hỏa lò
Lửa nướng con thành khô cá lẹp
Thương con thức giấc dậy làm thơ.
Ăn sớm lo chiều, ôi thắt thẻo
Anh ơi! hết gạo, hết đồ cầm
Bé Uyên đòi sách, đòi mua nhạc
Tiếng vợ buồn như nhạc ngũ âm.
Cha già con muộn, con mau lớn
Măng mọc tre tàn: Tre héo khô
Quần áo học trò con mặc chật
Đòi mua ba chẳng đủ tiền mua.
Trời hỡi, Ngọc Hoàng, ơi Phật, Chúa
Đâu từ bi, bác ái, tình người
Kẻ gian nịnh bợ, giàu như thổi
Người sạch trong tan nát rã rời.
Bạc tỉ dồn hầu bao mọt nước
Của công nhét túi lũ sâu dân
Mộ bia còn bị ăn xương cốt
Đừng nói làm chi chuyện nghĩa nhân.
Giải phóng thật ra là lũ giặc
Đổi màu mặt nạ lũ ma trơi,
Giàu đen rắn độc, nghèo tro bụi
Ai hóa kiếp, còn ai đổi đời?
Ba hối hận hai lần "hạ chiếu"
Đốt thiêu con, vợ, phủ hoa tươi.
Rồi ba treo cổ mừng sinh nhật
Thi sĩ Kiên Giang đã đổi đời.
Kiên Giang viết trong đêm.
(Hẻm Ba Đình - quận 8)
Dù đói nghèo, dù sống hay chết thì thi sĩ Kiên Giang vẫn dùng được văn thơ để nói lên nỗi khổ đau và nguyền rủa những kẻ đã gieo đau khổ cho anh, gia đình và bao nhiêu dân nghèo khác. Anh không thể có việc làm để kiếm tiền sinh sống, vợ con tạm chung sống chịu không nỗi đói khổ, đã âm thầm chia tay với anh, không biết họ đi về đâu, sống ra sao? Căn nhà cũng đã bán đi để có cái ăn và anh nghỉ là khi ăn hết tiền bán căn nhà tồi tàn đó thì đời anh sẽ ra sao? Anh từng trọn đời gắn bó với sân khấu cải lương, nay về già, sân khấu cải lương điêu tàn, anh đành xa thành phố để trở về rừng U Minh, nơi chôn nhau cắt rún, về rừng nếu không kiếm sống được nữa thì chết âm thầm cũng là điều anh mơ ước.
Và anh tự an ủi:
Cuộc sống đắng cay là thế đó
Tôi ơi, đừng trách chớ than trời
Ngựa hí trường đồ tri mã lực
Ngẩng cao vượt dốc, chết thì thôi!

Nhớ những bạn nghệ sĩ, soạn giả không may mắn còn ở Việt Nam.
Nguyễn Phương

No comments: