_______________
Vũ Thế Thành
Hồi nhỏ tôi không thích ăn xôi.
Đơn giản vì mẹ tôi bán xôi, mỗi khi bán ế, bà thường “mời” tôi ăn. Con nít ăn
hoài một thứ ngán. Đôi khi tôi làm eo không ăn, bà chẳng nói gì.
Rồi cũng có cách “gỡ” lại. Tôi giả vờ ốm, không ăn cơm. Ốm đau
ai lại gợi ý ăn uống này nọ. Tôi cũng hiểu thế. Bà hỏi tôi ăn cháo, tôi lắc
đầu. Bà hỏi tôi ăn phở, tôi nín lặng. Thế là tôi có phở. Một tô phở thì
chẳng nhằm nhò gì với thằng nhóc đang tuổi nghịch ngợm. Tôi lén bà xuống bếp
xúc thêm cơm ăn với nước phở.
Mẹ tôi cưng nhưng không chiều. Tính tôi quậy phá, có bị nọc xuống phết vài
roi cũng chẳng lấy gì oan ức. Tôi lỳ đòn. Ba tôi ít đánh, nhưng đánh đau, tôi gồng
mình chịu, không kêu khóc. Với mẹ tôi thì khác, roi chưa chạm đến mông tôi đã
gào lên thảm thiết.
Những trò chơi giả ốm ăn phở, già họng né đòn thường tỏ ra đắt giá và hiệu nghiệm.
Tôi tự hào về mấy trò mánh mung này. Sau này có con, tôi mới hiểu đó là những
trò rẻ tiền. Áo mặc sao qua khỏi đầu.
Nghề bán xôi coi vậy mà cực. Mẹ tôi phải thức dậy sớm từ ba giờ sáng để nấu
xôi. Thức sớm hơn, bà không dám ngủ lại, sợ ngủ quên, lỡ buổi bán. Hồi đó giờ
Sài Gòn chạy sớm hơn giờ bây giờ một tiếng. Bà rời nhà với thúng xôi khi trời
chưa sáng, và về nhà lúc tám giờ dù bán hết hay không. Khách hàng là học sinh,
người lao động, quá giờ đó thì bán cho ai, vả lại xôi cũng nguội rồi, bà bảo thế.
Hồi thức khuya học thi, bà thường mang lên gác cho tôi ly cà phê nóng, và trước
khi quẩy thúng xôi đi, bà lại đem lên cho tôi khi thì tô mì gói, khi thì đĩa
xôi nóng. Thức cả đêm, dồn hết năng lượng vào mấy bài tập toán-lý-hóa, thì
món xôi nóng lúc đó dù phải ăn triền miên cũng không phải là điều quá tệ.
Mẹ tôi mù chữ (thứ thiệt), nhưng tính nhẩm thì…thầy chạy. Ba tôi mất sớm, nên
chuyện cúp cua, lêu lổng, kể cả nhái chữ ký trong học bạ, tôi qua mặt bà thoải
mái. Không quản lý nổi việc học của thằng con, bà dồn tất cả sự quan tâm vào
chuyện ăn uống, sức khỏe và niềm vui của tôi. Chợ búa, bếp núc, giặt giũ… là những
việc hầu như chẳng bao giờ tôi rớ tới. Sau này, xa nhà kẹt quá phải đi chợ, tôi
chẳng bao giờ chuốc lấy phiền muộn vào cuộc chơi trả giá, ngay cả việc xách
bó rau ra khỏi chợ vẫn còn ngường ngượng.
Có hôm tôi dở chứng ngoan ngoãn quét nhà, bà cười mỉm. Lát sau thấy bà lặng lẽ
quét lại. Giặt giũ cũng thế, quần áo ngâm chưa kịp giặt, bà chờ tôi đi, rồi vò
lại cổ áo, gấu quần. Nấu nướng thì, bà luôn miệng nhắc nhở: Chờ mỡ sôi, rồi
mới đập trứng vào… Đại loại là thế. Dưới con mắt của bà, việc nhà tôi chẳng làm
được gì đến nơi đến chốn cả, chỉ nên ăn, học và…chơi (khoản sau cùng là tôi
suy đoán). Nói theo cách mà bà vẫn thường “mắng” tôi là… thằng ăn hại. Tôi cũng
chẳng vừa: Con thấy mẹ vui khi “hầu” thằng ăn hại. Bà cười, đập tay tôi: Tôi đẻ
ra anh, mà lại không biết anh muốn gì à! Tôi cười thầm, con từ trong bụng mẹ
chui ra, sao lại không biết mẹ nghĩ gì! Dĩ nhiên bà chẳng bao giờ nghe được
những lời nói thầm đó.
Thật ra tôi cũng đâu đến nỗi vô tích sự như thế. Tết Đoan ngọ nào mẹ tôi cũng
làm cơm rượu bằng nếp vàng. Cơm rượu bà làm thì ngon tuyệt, thơm, ngọt, hạt nếp
mềm nhưng vẫn còn độ dẻo. Hồi 6, 7 tuổi tôi vẫn lén ăn vụng cơm rượu khi nó
chưa kịp ngấu, say xỉn đến nỗi bỏ cả học. Dạo sau bà than phiền, sao rượu mau
chua quá. Tôi hứa sẽ giải quyết được. Bà nhìn tôi ngờ vực. Sự cố rượu hóa
chua là vấn đề nan giải ở thời Louis Pasteur, chứ thời nay, với thằng
có nghề như tôi chỉ là chuyện nhỏ. Đó là lần duy nhất trong đời tôi đã dùng sở
học của mình để giải quyết “việc nhà” cho bà. Nhưng “thành tích” này vẫn không
đủ để bà thay đổi cái nhìn về tôi. Trong con mắt của bà, tôi chỉ là đứa con
chưa trưởng thành. Dù các con tôi đã lớn, đã tốt nghiệp và đi làm, nhưng thằng
cha chúng vẫn bị bà nội đưa vào diện cần quan tâm đặc biệt, ra ngoài vẫn bị nhắc
nhở quên nón, mang theo áo mưa…
Hồi cuối thập niên 70, buồn tình tôi mượn xe xích lô của người bạn, cảo lai rai
kiếm tiền xài vặt. Bà nắm tay tôi than thở, công lao mẹ nuôi con ăn học, học
cho cố vào, bây giờ lại ra nông nỗi này, sao thế hở con… Tôi cười gượng, con chỉ
đạp chơi cho biết mùi đời thôi, còn ban ngày con vẫn làm ở phòng thí nghiệm mà.
Bà thở dài…
Những năm cuối đời, mẹ tôi đi lại khó khăn, xe lăn không chịu ngồi, nhưng được
cái bà con chòm xóm hay tới chơi, giã trầu đưa chuyện với bà. Có lần vào siêu
thị, thấy bày bán mấy chai nước mắm nhỏ cỡ 30ml, đạm cao, giá đắt, chắc là hàng
chất lượng. Tôi mua 5-6 chai nhét túi quần mang về biếu bà. Quê mẹ tôi ở ven
sông Hồng, ngoài đê, chỉ trồng bắp, không trồng lúa được, nên bà quý hạt gạo lắm.
Bà bảo, ăn cơm với rau bí chấm nước mắm ngon còn hơn ăn thịt.
Thấy thằng con trịnh trọng moi túi quần ra mấy chai nước mắm, bà nhìn tôi khâm
phục. Tôi thì thầm, nước mắm thượng hạng đấy, để chấm với rau bí. Mẹ đừng dùng
nêm nếm. Bà giữ kỹ mấy chai nhỏ xíu đó lắm, mỗi ngày dùng một ít, và không quên
khoe với mấy bà hàng xóm nước mắm thượng hạng thằng con bà mua biếu.
Bẵng đi một vài tuần, tôi cao hứng nếm thử nước mắm. Trời đất như muốn
sụp, tôi biết ngay mình bị bợm. Với cái đầu nghề nghiệp, tôi có thể đoán ngay
ra nhà sản xuất đã giở những chiêu phép gì. Tôi phạm vào sai lầm hết sức
sơ đẳng là đã không nếm thử trước khi đưa bà. Tôi như phát cuồng. Ăn học làm
gì, bằng cấp làm gì mà mua chai nước mắm cho mẹ cũng không nên thân. Vậy mà
cũng bày đặt đi dạy, viết sách, viết báo về an toàn thực phẩm, khuyên người ta
thế này thế nọ. Trời ơi! Sao mặt đất không nứt ra để tôi vùi cái bản mặt mình
xuống cho rồi. Tôi nài nỉ bà đổi loại khác ngon hơn. Bà gạt đi, nước mắm này
ngon, anh biết gì mà cứ rộn lên. Bà vẫn tiếp tục dùng mỗi ngày thứ nước mắm chết
tiệt đó, vẫn tiếp tục khoe với mấy bà hàng xóm, mà không bao giờ mời họ nếm thử.
Tiêu chuẩn chất lượng nước mắm của bà khác với đời thường.
*
Dạo này tôi mất ngủ, đúng hơn là ngủ ít. Hai ba giờ sáng đã tỉnh dậy, không
sao ngủ lại được. Tôi bước ra bàn thờ thắp nén nhang, đun nước pha ly cà phê,
rồi thả người xuống ghế sa-lông đọc sách.
Nửa đêm về sáng thế này, đôi lúc tôi cảm thấy như thiếu thứ gì đó. Hình như
thiếu tiếng chân nhẹ nhàng trên gác gỗ. Tự nhiên tôi thấy thèm gói xôi hay tô mì,
định bước chân xuống bếp, nhưng cái tật lười biếng quen thói đã giữ chân tôi
lại. Tôi ngước nhìn lên bàn thờ, bắt gặp ánh mắt vừa chế giễu, vừa thương hại,
vừa trách móc của mẹ tôi.
Đà Lạt mùa này mưa lạnh, mưa rả rích cả đêm. Nén nhang trên bàn thờ đã tàn quá
nửa. Vậy là mẹ tôi mất cũng hơn 3 năm rồi. Giờ này có lẽ bà đã bước vào cảnh giới
nào đó, làm gì còn luẩn quẩn ở cõi ta bà này để trách móc thằng con ăn hại,
nuôi mãi không lớn của bà.
Tóc tôi đã bạc quá nửa. Rồi cũng đến ngày phải ra đi. Không biết ở cảnh giới
khác, hai mẹ con có gặp nhau không? Gặp nhau mà có nhận ra nhau không? Tôi chắc
mẹ tôi sẽ nhận ra tôi, bà nhận ra tôi bằng trái tim muôn kiếp của người mẹ. Còn
tôi, tôi cũng sẽ nhận ra mẹ tôi, tôi nhận ra bà từ bản năng của thằng ăn hại.
Mùa Vu Lan 2014
No comments:
Post a Comment