_________________
NGUYỄN NGỌC HOÀNG
Buổi chiều trời hanh nắng, từng cơn gió hắt hiu thổi
qua dãy hàng lang trống trải. Ngôi trường nhỏ, nằm khuất phía sau hai hàng bạch
đàn càng khiêm tốn, lặng yên. Vài tiếng chim cu đất gáy xa xa, vọng lại. Tôi xếp
vội sấp bài đang chấm dở, định bước ra khỏi lớp học nhưng chần chừ, lại thôi. Vạt
nắng chiều xuyên cửa sổ, nằm vắt dọc theo dãy bàn ghế trống phía dưới. Mùi rạ
khô sau mùa gặt từ những thửa ruộng bên hông trường, như loang tỏa khắp căn
phòng. Tôi muốn ngồi lại, tận hưởng khoảnh khắc tĩnh lặng nầy… Từng dãy bàn ghế
trống không, lặng lẽ phía dưới. Chừng như chúng cũng mang một đời sống riêng,
chừng như chúng cũng có một linh hồn. Hình ảnh những buổi chiều như vậy, tấm bảng
gỗ đen, dãy bàn ghế chợt như thì thầm với tôi những câu chuyện kể:
1.
Người Thầy Giáo Cũ
Hôm đó, sau tiết dạy lớp 12C, vài học
trò nhắn có người muốn gặp mặt tôi ngoài quán nước dì Năm. Hỏi ra mới biết cũng
là một thầy giáo đã từng dạy trường Kiên Thành trước kia, nay đổi thành cấp 3 Rạch
Sỏi. Người thầy giáo “cũ” đó tên là Phương. (Đến nay tôi không còn nhớ họ tên đầy
đũ của thầy. Chỉ nhớ học trò gọi là thầy Phương, dạy lý hóa). Tôi đã nghe các
thầy cô trong trường và học trò nhắc nhở nhiều về thầy Phương với những tình cảm
trân trọng. Khi tôi về trường, thì thầy Phương đã xin nghỉ dạy? Câu chuyện
chung quanh thầy Phương, khiến tôi rất quan tâm và tò mò. Đặc biệt là học trò
thường nhắc nhở và thăm viếng sau khi thầy Phương không còn dạy nữa. Muốn gặp mặt
chắc là đám học trò đã “tán hưu tán nai” về ông thầy giáo mới về trường, lại dạy
môn văn “hổng giống ai” trong thời buổi này. Cũng may mà không bị ty giáo dục
cho “nghỉ” việc mà chỉ bị anh ba Thái (trưởng đồn công an Rạch Sỏi lúc đó) bắt
giữ vài lần về tội “để tóc dài” và tư cách “tiểu tư sản”!
Việc xin nghỉ dạy của thầy Phương được thầy cô và học
trò chuyền nhau kể lại. Nghe câu chuyện tôi rất xúc động và cũng mong được một
lần gặp mặt. Chừng như trong thời gian dạy học, thầy Phương phát giác mình có
triệu chứng của bệnh phong cùi. Để phòng ngừa và chữa trị, thầy Phương cất một
căn nhà nhỏ ở tách riêng với gia đình và làm đơn xin nghỉ dạy. Tôi có hỏi thăm
các thầy cô, nhưng cũng không ai biết thêm gì nhiều. Chỉ biết thầy Phương tính
tình nề nếp, gương mẫu, rất gần gũi và được học trò quý mến. Cũng có vài dư luận
cho rằng, bệnh phong cùi chỉ là cớ để thầy Phương xin nghỉ dạy vì không chấp nhận
chương trình giảng dạy của nhà trường trong xã hội mới. Nhưng dù lý do nào, thầy
cũng thể hiện sĩ khí của một kẻ sĩ trước những biến động thời cuộc... Ra gặp thầy
Phương, ngoài tôi còn có một số học trò đã từng học với thầy và đang học với
tôi. Dáng người chắc, da ngâm nắng, khuôn mặt hơi khắc khổ và có nụ cười tươi,
gần gũi, thầy Phương hơn tôi chừng 3, 4 tuổi (?). Tôi tự giới thiệu và thân mật
đưa tay ra bắt tay anh. Chút ngần ngại, anh chào tôi và mời ngồi nhưng không chịu
bắt tay. Cũng không để thầy Phương khó xử, tôi vui vẻ ngồi xuống bàn và xin được gọi thầy Phương bằng
anh. Sau vài phút xã giao ban đầu, không khí và câu chuyện chúng tôi cởi mở
hơn. Qua chuyện trò và quan sát gần, tôi không thấy dấu hiệu gì ở thầy những
triệu chứng bệnh phong. Trong ánh mắt, tôi nhìn thấy nhiều nuối tiếc và niềm
đam mê vẫn còn đó của anh Phương dành cho trường lớp. Bên ly cà phê nóng của
quán dì Năm, câu chuyện thầy trò chúng tôi không chừng, không dứt. Khác với cái
bất cần, lãng đãng “công tử bột” của tôi, cái bất cần mang nhiều tính hảo hán
“Lương Sơn Bạc” của anh khiến người đối diện có nhiều ấn tượng. Giọng nói chậm,
rõ chữ và đặc sệt “miệt dưới” anh gây rất nhiều cảm tình cho tôi. Câu chuyện bắt
đầu từ trường lớp, đến thời cuộc, xã hội, rồi đến những “thế thái nhân tình”, từng
mảnh vụn cuộc đời trong giọng anh dường như mang nhiều cay đắng pha lẫn chút
xót xa, mai mỉa. Anh nói như nhắn nhủ với tôi những đoạn đường anh đã qua là những
gì tôi đang bước tới. Có rất nhiều điều tôi đồng tình, nhưng cũng có ít kinh
nghiệm tôi chưa hề nến trãi. Cho dù thế nào tôi vẫn trân trọng những gì anh muốn
gửi gấm, tâm tình.
Trong đời chúng ta có biết bao nhiêu gặp gỡ, biết bao
nhiêu con người, biết bao nhiêu khuôn mặt nhưng chỉ có vài ánh mắt, vài khuôn mặt
dù chỉ một lần, ngắn ngũi sẽ ở lại trong ta một đời không quên. Tôi biết chắc
cuộc gặp mặt hôm nay sẽ theo tôi nhiều năm tháng mai này. Tôi bắt tay thầy
Phương thật chặc, thật lâu trong lời bịn rịn chia tay và hứa có dịp sẽ cùng các
em học trò ghé thăm anh tại nhà. Để suốt ngày hôm đó lòng tôi cứ khắc khoải,
bâng khuâng về hình ảnh một người “thầy cũ”, một người bạn mới quen, về những
cưu mang một kiếp người lắm đổi, giữa bao nhiêu trùng vây đến cuối một dòng đời.
Đó là lần đầu tiên cũng là lần cuối tôi gặp thầy
Phương. Đời sống cứ cuốn trôi không ngừng nghỉ, một ngày bộn bề hay trống rỗng
lần qua, chúng ta không ý thức, không hay biết. Cho đến hôm chợt giật mình nhìn
lại, những ngậm ngùi, nuối tiếc thắt chặc trái tim mình! Các bạn đã bao lần lỡ
hẹn hay đã bao lần lỗi hẹn? Chắc cũng như tôi, không ít? Để đôi lúc trong đời,
một phương trời nào đó chạnh lòng, loáng thoáng những khuôn mặt của thời gian:
“Trời
Nam nghìn dặm thẳm
“Non nước một màu sương
“Chí chưa thành, danh chưa đạt
“Trai rẻ bao năm mà đầu bạc
“Trăm năm thân thế bóng tà dương… (1)
2.
Cô Học Trò “Khách Lạ”
Ra dấu cho cả lớp ngồi xuống, tôi mở sổ
nhìn nhanh vào cột điểm hàng tháng, đã gần kín. Hôm nay không phải gọi học sinh
hỏi bài, nhe nhõm. Với tôi học và dạy môn văn chương là sự cảm nhận không phải
thuộc lòng. Khi đã cảm nhận được, thì chỉ sợ khó quên chứ nói gì đến phải “thuộc”.
Tôi không “mặn” với vọng cổ, với cải lương. Trong suốt cuộc đời đến nay, tôi
chưa hề cầm tay một bài ca vọng cổ nào. Vậy mà chỉ một lần, một lần qua phà Mỹ
Thuận, tôi tình cờ nghe cô bé hát dạo bài ca vọng cổ. Mãi đến nay tôi vẫn không
thể quên được:
“Em ở nơi nào, em ở đâu
“Lời ca tức tưởi mấy cung sầu
“Quê nghèo, áo nhuộm màu sương gió
“Một kiếp phong trần, mấy bể dâu... (2)
Viết tựa cho bài giảng hôm nay, tôi chợt có một cảm
giác rất lạ phía sau. Giác quan thứ sáu báo tôi là có điều gì đó khác thường
trong lớp. Quay lại, tôi chậm trãi nhìn quanh những dãy bàn. Một khuôn mặt lạ
ngồi cuối dãy bàn góc phải, ánh mắt đen nháy nhìn tôi bối rối. Một cô học trò
“khách lạ” đang ngồi “dự giờ” của tôi đây mà. Không quá ngạc nhiên, vì đây
không phải là trường hợp thứ nhất. Đã có vài em học sinh vì lý do gia đình hay
lý do nào đó phải nghỉ học, nhớ trường lớp, nhớ bạn bè cũng đã vào lớp giờ của
tôi, để làm người học trò “khách lạ”. Hơn ai hết, tôi hiểu và xúc động vô cùng.
Cười nhẹ, tôi bắt đầu bài giảng như không hề nhìn thấy cô học trò “khách lạ”
đáng mến đó. Thường thì 1 tiết dạy của tôi quan trọng nhất là 15 phút cuối (30
phút cuối cho buổi dạy 2 tiết). Những giây phút cuối của buổi học sẽ để lại cho
các em những trãi nghiệm khó quên trong đời. Ít nhất là tôi nghĩ như vậy! Sẽ là
những đoạn thơ, những bài thơ trong và ngoài nước hay nhất của dòng văn học hiện
đại. Là những câu chuyện kể về huyền thoại và nền văn học hiện sinh của phương
Tây ảnh hưởng rộng lớn vào nhân sinh quan của nhân loại. Tôi biết rõ điều này
có thể đưa đến việc bị “đuổi việc” hay nặng hơn là bị kết tội giảng dạy nền văn
học “phản động”, “đồi trụy” và vào đồn công an huyện như chơi. Nhưng không hiểu
sao tôi tin tưởng tuyệt đối vào học trò của mình. Tôi tin các em, trong nhận thức
trong sáng, hồn nhiên đó sẽ cảm thế nào là tính trữ tình, tính nhân bản trân
quý. Và thật vậy, niềm tin của tôi đã được các em giữ kín trong lòng.
Tiếng kẻng hết giờ vang lên, tôi ngỏ lời cám ơn cô học
trò “khách lạ” đã đến dự giờ dạy và mong gặp lại bất cứ lúc nào em muốn trở lại!
Cô học trò “khách lạ” cúi đầu và tôi đã nhìn thấy đôi vai em rung lên từng hồi.
Em đang khóc, khóc như bao nhiêu con nước chợt tràn bờ trong một lần mưa vỡ. Những
giọt nước mắt của em khiến tôi phải cắn chặc môi mình, bước nhanh ra khỏi lớp. Qua
học trò tôi được biết tên của cô học trò “khách lạ” là L.T. Hồng Phượng. Trước
Hồng Phượng là một học sinh giỏi và rất ham học, vì “hoàn cảnh” gia đình em phải
nghỉ học cuối năm lớp 11 để phụ giúp mẹ buôn bán, nuôi đàn em nhỏ. Thỉnh thoảng
nhớ bạn bè trường lớp, Hồng Phượng lại làm người học trò “khách lạ” dự những buổi
học bất chợt mà em có cơ hội, có thời gian. Vài tuần lễ sau tôi bất ngờ nhận được
lá thư tay của em gửi. Lá thư không dài nhưng đủ để tôi phải trằn trọc nhiều
đêm, không ngủ. Cuối cùng tôi đã đốt lá thư, cho em và cho tôi. Một phần, tôi
đã thuộc từng chữ viết của em; phần khác, tôi muốn giữ kín nội dung lá thư cho
riêng mình... Không đầy một năm sau, tôi nghe học trò báo tin em đã lấy chồng
đi xa, tận Vĩnh Thuận. Nét hân hoan trên
khuôn mặt ái ngại sau giờ học và ánh mắt tin yêu đã nhuộm phấn bụi đời, ở mãi
trong trái tim tôi sau những mai này...
“Nơi
em về ngày vui không em
“Nơi em về trời xanh không em
“Ta nghe nghìn giọt lệ
“Rơi xuống thành hồ nước long lanh... (3)
3.
Dấu Bụi Thời Gian
Những tháng ngày cuối năm, nơi tôi ở trời bắt đầu lạnh
và có những cơn giông từ phía bờ Đại Tây Dương. Buổi chiều mưa như trút nước,
gió thổi nghiêng khoảng rừng cây thưa bao quanh chỗ tôi làm. Từ khung cửa kiếng
lấm tấm nước, tôi chợt thấy thời gian đang ngưng đọng theo cơn mưa chiều. Những
buổi chiều mưa nuối tiếc bóng đời người. Mọi ngập ngừng, bỏ lỡ không bám lại một
bến bờ tình cờ nào suốt dòng đời nghiệt ngã, trôi xa.
“... Cụm rừng nào lá xác xơ cây
“Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
“Ôi cát bụi phận này
“Vết mực nào xóa bỏ không hay…” (4)
Đâu bóng người xưa, thôi những bụi mờ phấn trắng. Thấp
thoáng trong cơn mưa trút bao nỗi nhớ chiều nay, đâu đó là những bóng hình. Một
ngôi trường thân thương nhỏ bé; một khuôn mặt của người thầy cũ mà chỉ một gặp
mặt, chạm tay; một ánh mắt hân hoan, ái ngại của cô học trò “khách lạ” một lần,
sao như chợt nhớ chợt quên. Những dòng chữ nghẹn ngào trong lá thư tay như bay
chơi vơi trong tim tôi muôn vàn lớp bụi của thời gian phủ lấp. Cố moi mọi ngõ
ngách của tiềm thức, nhưng sao tôi vẫn không hình dung được khuôn mặt của nỗi
nhớ. Càng cố gắng, trí nhớ càng phản bội tôi đến tàn nhẩn. Lờ mờ cơn mưa hay mắt
tôi chợt lờ mờ trong nỗi nhớ tình cờ, đọng những giọt nước mặn môi, baodấu bụi
đời một thuở:
“… Những người muôn năm cũ
“Hồn ở đâu bây giờ ? (5).
Durham,
North Carolina
Nguyễn
Ngọc Hoàng
(1)
Hồ Trường – Nguyễn Bá Trác
(2)
Sầu Vương Ý Nhạc – Viễn Châu
(3)
Như Cánh Vạt Bay – Trịnh Công Sơn
(4)
Cát Bụi – Trịnh Công Sơn
(5)
Ông Đồ - Vũ Đình Liên
No comments:
Post a Comment