11
Đang lui cui bửa củi nơi sân sau Sa Huỳnh nghe có tiếng cười nói
lao xao. Bước ra ni cô hơi ngạc nhiên khi thấy ông lính già dẫn đầu một toán
lính đang đi tới.
– Im… Mấy thằng bây im miệng… Đây là chùa chiền chớ không phải
chợ búa đâu mà om xòm…
– Mô phật… Bần ni xin hỏi…
Chấp tay xá ni cô ba xá, thượng sĩ Minh nghiêm giọng.
– Thưa ni cô… Ông đại úy của tôi…
Thấy được thắc mắc của ni cô, ông ta tươi cười giải thích.
– Đại úy Hoàng của tôi…
– Mô phật… Đại úy Hoàng… Ông Hoàng…
– Dạ dạ… Đại úy Hoàng bảo tôi dẫn lính lên đây để sửa lại chùa…
– Cám ơn ông… Ông thấy việc gì cần làm cứ làm…
– Trời ơi… Cái cô ni cô này đẹp hết sẩy mà đi tu uổng quá…
– Mày nói đúng đó… Ni cô mà trẻ quá… Đẹp thấy muốn xỉu…
– Tao nghĩ đại úy của mình mê…
– Xuỵt… Mày nói lớn quá ổng nghe được ổng cạo đầu mày…
Lính xì xầm. Sa Huỳnh đỏ mặt khi nghe những lời xì xầm của mấy
người lính quỉ quái. Thượng sĩ Minh cũng nghe được nhưng tảng lờ. Ông phân công
lính khai quang cỏ dại mọc tràn lan, bửa củi, xách nước còn bao nhiêu lợp lại
mái nhà, cổng chùa, dựng lại mấy cây cột xiêu vẹo.
– Mô phật… Bần ni xin được hỏi đại úy Hoàng là gì của ông?
– Thưa ni cô… Ổng là đại đội trưởng… Ổng chỉ huy một trăm mấy chục
người…
– Mô phật… Chắc ổng đánh giặc giỏi lắm?
– Số dách thưa ni cô… Ổng đánh giặc giỏi mà cũng thương lính lắm…
Ngừng lại giây lát Minh cười tiếp.
– Ổng còn dặn tôi là ni cô cần thứ gì cứ bảo tôi mua…
– Mô phật… Nhờ ông nói lại với đại úy Hoàng là tôi cám ơn. Ông đại
úy cho cái gì tôi nhận cái đó. Chùa không có đòi hỏi gì hết…
Thượng sĩ Minh gật đầu cười.
– Sáng mai tôi sẽ đi Tam Quan sớm để mua đồ rồi trở về. Chắc phải
chiều tôi mới mang lên cho ni cô được…
– Mô phật… Lúc nào ông mang lên cũng được…
Hoàng cười cười khi nghe ông thượng sĩ thường vụ của mình báo
cáo lại những lời của Sa Huỳnh.
– Đây là danh sách và tiền để ông mua cho chùa…
Cầm tiền và danh sách Minh nói đùa.
– Cái cô ni cô đó đẹp đẽ mà lại đi tu uổng quá trời hả ông thầy…
Phải dằn lắm Hoàng mới không bật cười vì câu nói của Minh. Tuy
nhiên anh cũng thầm công nhận lời của Minh đúng. Ni cô Sa Huỳnh đi tu uổng lắm.
Vừa gặp mặt Sa Huỳnh lên tiếng trước.
– Mô phật… Ông đại úy… Ông đi đâu vậy?
– Xin Sa Huỳnh đừng gọi tôi là đại úy…
– Gọi là đại đội trưởng nghen…
Hoàng lắc đầu cười vì lời nói đùa của ni cô.
– Nếu không gọi được anh Hoàng thời Sa Huỳnh gọi tên cũng được bằng
không gọi ông Hoàng cũng được…
Sa Huỳnh lãng sang chuyện khác.
– Cám ơn ông cho lính lên chùa làm giúp…
– Có gì đâu mà Sa Huỳnh cám ơn. Đây là bổn phận của lính mà. Bảo
vệ dân, giúp đỡ dân là chuyện của lính…
Ngừng lại giây lát Hoàng nói nửa đùa nửa thật.
– … Còn thương yêu kẻ tu hành là bổn phận của tôi…
Sa Huỳnh cúi mặt dấu nụ cười. Ni cô không dám ngước đầu lên vì sợ
chạm phải ánh mắt tha thiết và nồng nàn của người lính si tình.
– Tôi mời Sa Huỳnh đi dạo một vòng quanh chùa để xem có gì cần
làm nữa không. Nếu có sáng mai tôi sẽ cho lính lên làm tiếp. Có lẽ tôi và đại đội
sẽ không ở đây lâu…
Giọng nói của Hoàng buồn bã và nghẹn ngào. Sa Huỳnh ứa nước mắt.
Dù biết rằng mỗi người đều có đời riêng để sống nhưng Sa Huỳnh vẫn cảm thấy đau
lòng khi phải chia tay với người lính chiến. Chiến tranh thật tàn nhẫn. Hoàng sẽ
phải đi xa và có thể không bao giờ trở lại. Không hẹn hai người cùng sóng bước
trên bãi cỏ vàng úa. Tiếng gió rì rào. Tiếng chim cu gáy rời rạc. Mỗi người đều
im lìm nghĩ ngợi.
– Ông có biết đại đội của ông sẽ đi đâu không?
– Thưa không… Tôi không biết…
– Ông chỉ huy tới một trăm mấy chục người mà sao không biết. Tôi
tưởng ông làm lớn lắm mà…
Hoàng bật cười vì ý nghĩ ngây thơ của Sa Huỳnh.
– Tôi chỉ huy có đại đội mà làm lớn gì…
Dường như muốn lãng sang chuyện khác Hoàng hỏi nhỏ.
– Sa Huỳnh bao nhiêu tuổi?
– Ông hỏi để làm gì… Mô phật… Tôi lớn tuổi hơn ông nhiều…
– Sa Huỳnh nói dối phải không?
Ni cô cất tiếng cười vui. Âm thanh tiếng cười bay trong cơn gió
của buổi xế chiều.
– Tôi hai mươi hai tuổi…
– Vậy là Sa Huỳnh nhỏ hơn tôi năm tuổi…
– Ông đi khắp nơi chắc quen nhiều người lắm…
Hoàng cười vì câu hỏi của ni cô.
– Tôi không có ai hết. Ở đâu tôi cũng chỉ thấy có Sa Huỳnh… Tôi
ăn… Tôi ngủ… Tôi đi… Tôi nằm… Tôi thở với hình bóng của Sa Huỳnh…
Hoàng dừng lại thở hơi dài. Nghe được tiếng thở dài của người
lính chiến, Sa Huỳnh rưng rưng buồn. Như không tự chủ được ni cô nắm lấy bàn
tay chai cứng rồi để yên bàn tay của mình trong lòng bàn tay của Hoàng. Lát sau
ni cô mới nhẹ nhàng rụt tay lại. Hai người đi một vòng quanh chùa. Dừng lại nơi
cửa hông Hoàng cười.
– Sa Huỳnh thấy có gì cần sửa chữa nữa không?
– Không… Tôi có nhìn đâu mà thấy… Còn ông?
– Tôi nhìn Sa Huỳnh chứ tôi đâu có nhìn ngôi chùa…
Hai người không hẹn đồng cất tiếng cười.
– Ông vào uống chén nước trà…
– Cám ơn Sa Huỳnh… Tôi phải về…
Đứng nhìn theo bóng người lính mặc bộ quần áo rằn ri Sa Huỳnh cảm
thấy tâm hồn bật khóc âm thầm. Ni cô ước gì mình không đi tu, không mượn câu
kinh tiếng mỏ để xa trần thế và không nguyện đem ánh sáng nhiệm mầu của Phật để
làm cho nhân loại bớt đớn đau sầu khổ. Hiện tại có một người mà ni cô thương
yêu đang héo hon sầu úa. Nhưng ni cô làm sao giúp được. Ni cô không thể bỏ con
đường đã đi. Hoàng ơi… Xin ông hiểu cho tôi… Tôi yêu ông nhưng tôi không thể
chung đường với ông. Tôi và ông. Hai người xa lạ. Gặp nhau. Yêu nhau nhưng
không thể sống với nhau trong cõi trần ai tục lụy. Dù vậy tôi vẫn nhớ ông. Nghĩ
tới ông. Tưởng tới ông… Bóng tối chụp xuống xóa nhòa hình bóng ni cô đứng yên
như pho tượng phật đang lần tràng hạt.
Năm giờ sáng. Bắt tay đại úy Sang, vị tân tiểu đoàn trưởng địa
phương quân quen biết trong những ngày ở Sa Huỳnh, Hoàng cười đùa.
– Anh ở lại mạnh giỏi. Khi nào Việt Cộng đánh nữa tôi sẽ gặp
anh…
Người tiểu đoàn trưởng địa phương quân cười hà hà.
– Anh nói thế là tôi không ham rồi. Tụi nó trở lại lần nữa là
tui banh càng rồi còn đâu gặp lại anh…
Vỗ vai người bạn mới Hoàng leo lên xe. Chiếc GMC từ từ lăn bánh.
Trong bóng đêm mờ thẳm ngôi làng Sa Huỳnh xa dần cùng với bóng dáng của người
ni cô. Hoàng đốt thuốc vì cảm thấy lạnh. Không phải lạnh bên ngoài mà lạnh ở
trong tim. Khói thuốc lá bốc lên làm anh chảy nước mắt. Hai tiếng Sa Huỳnh bật
ra trong trí não. Hình bóng ni cô gãy đổ theo sự giằn xóc của chiếc quân xa
đang chạy trên con đường lồi lõm nhiều ổ gà. Hoàng nhớ tới lần nắm tay sau
cùng. Bàn tay mềm mại, ấm êm của ni cô bắt đầu chai cứng vì phải làm lụng để tự
mưu sinh. Hoàng liên tưởng khuôn mặt mừng vui và nụ cười rạng rỡ của Sa Huỳnh
khi thấy mảnh đất hoang sau chùa được Hoàng với lính cày xới lên thành giồng,
thành luống để ni cô có thể trồng rau, bắp, khoai, cà… Sa Huỳnh xuýt xoa một
cách dễ thương khi Hoàng mang đến cho chùa cái lò dầu mà lính của anh đã làm bằng
vỏ của trái đạn đại bác 155 ly. Ni cô nghẹn lời không thể nói tiếng cám ơn khi
Hoàng cùng với lính khiên gạo, nước tương, dầu lửa và vô số vật dụng linh tinh
chất đầy trong nhà bếp. Ni cô đỏ mặt khi Hoàng đưa cho mấy chục cục pin để
nghe radio theo dõi tin tức chiến sự nói về đại úy Hoàng thân yêu.
*****
– Đại úy… Đại úy…
Hoàng quay lại khi nghe người bưu tín viên của tiểu đoàn gọi.
– Đại úy có thư nè đại úy…
Vị đại đội trưởng hơi run tay khi cầm lấy một bao thư dày cộm.
Ngắm nghía phong thư anh cau mày vì tên người gởi trên phong thư nhầu nát và cũ
kỹ. Hồ Thị Sông Thu… Sông Thu tên nghe thật lạ…Hoàng lẩm bẩm.
– Mình đâu có quen ai tên Sông Thu…
Tuy nhiên nhìn nét chữ anh ngờ ngợ. Nét chữ nắn nót và gãy gọn
như của Sa Huỳnh. Nhét phong thư vào túi áo anh hối hả trở về đại đội. Sau khi
làm xong các công việc thường ngày anh tới ngồi nơi cái võng căng giữa hai thân
cây lớn đầy bóng mát. Điếu thuốc cháy nơi tay anh chậm chạp xé phong thư.
– Ông Hoàng… Chắc ông ngạc nhiên và vui mừng vì tưởng là
của cô gái nào gởi thư cho ông phải không. Tôi biết ông đại úy Hoàng đẹp trai của
tôi đào hoa lắm. Tuy nhiên tôi không ghen đâu. Chắc ông cười vì những lời của
tôi. Chắc ông cười và tự hỏi có cái gì thay đổi nên khiến một kẻ tu hành nói
chuyện như một người còn sống trong tục lụy. Tôi biết là ít hay nhiều tôi có
thay đổi. Tại ông đó… Tôi bắt đền ông đó… Ông Hoàng… Tại ông… Tình yêu của ông
đã rung chuyển tâm hồn bình yên của tôi. Khi ông đi rồi tôi mới khám phá ra một
điều khiến cho tôi cười mà lại khóc. Đau đớn mà mừng vui. Cứ mỗi lần chúng ta gặp
nhau là tôi cảm thấy gần ông nhiều hơn. Nhớ ông nhiều hơn. Thương ông nhiều
hơn. Khổ thân tôi ông Hoàng ơi. Ngày xưa lúc chúng ta mới gặp nhau. Hể ông tiến
là tôi lùi lại để cố gắng giữ một khoảng cách. Còn bây giờ có lẽ tôi không muốn
hoặc không thể lùi nữa. Ông tiến và tôi đứng yên một chỗ để chờ. Để đợi ông. Rồi
một lúc nào đó chúng ta sẽ gần nhau, thật gần để tôi có thể nhìn ông và nói.
Tôi yêu ông… Tuy nhiên tôi xin ông một điều. Tôi không thể sống với ông như một
kẻ bình thường. Tôi là kẻ tu hành. Do đó chúng ta sẽ yêu nhau trong tâm tưởng…
Đêm qua tôi bỏ giờ tọa thiền thường lệ để nằm yên trong bóng tối
nghĩ tới ông. Không biết giờ này ông đang làm gì. Vui chơi với bạn bè hay đang
chỉ huy lính đánh giặc. Ông có nhớ tôi không ông Hoàng. Ông có nghĩ về tôi
không. Ông có như tôi ngồi nhìn vào mặt đồng hồ Seiko để tưởng tượng ra khuôn mặt.
Nụ cười. Giọng nói. Ánh mắt của một người đã đi xa ngàn cây số. Ở một nơi mà
tôi không bao giờ tới được. Ông đang ở đâu ông Hoàng. Nếu có viết thư cho tôi
ông nên tả cho tôi biết nơi ông ở để tôi có thể hình dung ra bóng dáng ông lẻ
loi và buồn bã. Tôi ước có một ngày nào đó không xa tôi đến thăm ông thật bất
ngờ. Ông có phiền giận không khi tôi gọi tên ông hoài. Tôi gọi tên ông trong nỗi
nhớ vô thường khi lần giở kinh Pháp Hoa. Tôi nói chuyện với ông trong lúc tôi
đang lau chùi tượng Phật Di Đà khiến sư cụ cười bảo tôi lẩm cẩm. Tôi tưởng nhớ
ông khi lần giở từng trang kinh Địa Tạng. Cũng vì ông mà tôi lần hồi quên mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Tôi quên mất chân tâm tự tướng của mình…
Hoàng ngưng đọc. Anh rưng rưng nước mắt xót thương cho Sa Huỳnh
đang sầu khổ vì thương yêu mình. Tội nghiệp cho một xác thân đang vất vả vì cuộc
dằn vật của nội tâm. Nhiều khi anh cũng cố gắng quên đi một tình yêu nghiệt
ngã, đòi đoạn. Tuy nhiên anh biết mình bất lực. Tình yêu sừng sững như dãy núi
trường sơn ngoài kia. Tình yêu mong manh mà mầu nhiệm, bất biến bất hoại. Anh
phải làm gì khi chỉ là một người bình thường biết yêu thương sầu khổ, biết khóc
biết cười, biết run rẩy và hồi hộp.
Đốt điếu thuốc hít một hơi thật dài rồi nhả khói ra từ từ Hoàng
im lặng đọc tiếp lá thư của Sa Huỳnh.
– Ông Hoàng ơi… Tên Hồ Thị Sông Thu là của ba má tôi đặt
còn tên Sa Huỳnh là của ông đặt cho tôi. Ông muốn gọi tên nào cũng được. Tùy
ông. Tâm hồn của người ni cô của ngôi chùa Sa Huỳnh giờ đang bị xẻ làm đôi. Nửa
tục nửa tu. Ông nghe rõ chưa ông Hoàng. Chắc ông mừng lắm phải không ông đại đội
trưởng…
Hoàng ấp lá thư vào ngực. Hai mắt lim dim anh mỉm cười cảm thấy ấm
áp vô cùng. Anh cảm thấy bàn tay vô hình của Sa Huỳnh đang mân mê vết sẹo nơi
ngực, làm lành đi vết thương tình yêu đang chảy máu của một kẻ si tình.
– Ông Hoàng… Hôm qua tôi và sư cụ vừa ăn cơm vừa chuyện
trò. Có lẽ vui miệng nên người mới kể cho tôi nghe những mẫu đối thoại giữa ông
và sư cụ. Đây là một câu mà tôi còn nhớ. ” Một lần bắt gặp ông đang cầm cuốn
kinh, dường như là kinh Pháp Hoa, sư cụ mới hỏi.
– Thí chủ đang đọc kinh Pháp Hoa?
Nhìn sư cụ, ông cười trả lời.
– Không… Tôi chưa hề đọc kinh Pháp Hoa…
Nhìn cuốn kinh ông đang cầm trong tay sư cụ hỏi.
– Thế cái gì thí chủ đang cầm trong tay?
Đưa cuốn kinh Pháp Hoa lên ông cười hỏi.
– Sư cụ gọi cái này là kinh Pháp Hoa à?
Kể xong câu chuyện sư cụ nghiêm nghị nói với tôi.
– Hoàng…
Sư cụ gọi ông như thế.
– Hoàng có cái chân tâm… Nếu tu Hoàng mau ngộ lắm…
Tôi cười nghĩ thầm trong trí.
– Ổng mà tu gì… Yêu người tu thời có…
Hoàng ngừng đọc để đốt điếu thuốc. Anh cảm thấy vui vui vì những
lời nói dí dỏm của Sa Huỳnh. Một kẻ tu hành như ni cô mà viết ra những lời như
thế kể ra cũng lạ lùng và mới mẻ. Anh nhớ tới chuyện các thiền sư Phật giáo bên
Nhật cũng lấy vợ và có con cái như người thường. Anh ước gì Sa Huỳnh cũng bắt
chước chuyện đó. Hớp ngụm cà phê đen, hít hơi thuốc xong từ từ nhả khói ra anh
đọc tiếp lá thư thật dài.
– Hôm qua xách nước tưới rau nơi mảnh vườn mà ông và mấy ông
lính đã cày xới thành giồng tôi nhớ ông vô cùng. Ước gì có ông xách nước để tôi
tưới rau. Hàng bắp tôi trồng đã trổ cờ. Hái đọt lang mà tôi rơi nước mắt vì nhớ
tới những bữa cơm chay đạm bạc. Mân mê những trái dưa leo mà tôi buồn vì không
có ông xẻ dưa làm mắm. Đêm giật mình thức giấc lắng nghe tiếng gió xạc xào bên
hông chùa tôi mường tượng tiếng giày trận dẫm lên trên cỏ khô như đến nơi hò hẹn.
Hai chữ này khiến cho tôi giật mình thảng thốt. Chúng ta quen nhau đã lâu mà
chưa một lần hò hẹn. Không một lời ước nguyện mai sau. Đời sống cách ngăn. chia
cắt. Chúng ta mỗi người đi trên một con đường song song với nhau. Hồi còn đi học
tôi nhớ ông giáo sư toán có nói hai đường thẳng song song sẽ gặp nhau ở vô cực.
Ông Hoàng… Ở đâu là vô cực? Thiên đàng hay là cõi niết bàn tịch diệt. Tôi nhớ
ông cười bảo tôi là hai nơi đó quạnh hiu và buồn bã lắm vì không có tôi cười với
ông. Tôi nói với ông. Không có tiếng khóc, tiếng cười. Tiếng than và tiếng reo.
Ông kể cho tôi nghe mẫu chuyện về tổ sư Vô Ngôn Thông. Khi tổ sắp chết thời học
trò mới bạch rằng.
– Thấy suốt đời tu hành nên sau khi chết chắc sẽ về cõi niết bàn
cực lạc.
Tổ mới nói với học trò.
– Niết bàn cực lạc là đâu. Là tại chốn này…
Khi ông đi rồi tôi có đem mẫu chuyện này ra hỏi sư cụ thời người
hỏi tôi.
– Con nghĩ niết bàn cực lạc ở đâu?
– Bạch thầy con không biết niết bàn ở đâu…
Sư cụ nhìn tôi giây lát rồi nói một câu.
– Khi chưa tu ta thấy sông là sông, núi là núi. Khi đang tu ta
thấy sông không phải là sông, núi không phải là núi. Khi ngộ rồi ta thấy sông
là sông, núi là núi… Con hãy ngẫm lời ta nói…
Hoàng gấp lá thư còn một trang chưa đọc bỏ vào phong bì. Anh muốn
để dành cho ngày mai hay mốt hoặc khi nào không có việc gì làm.
– Đại úy… Đại úy… Tiểu đoàn phó gọi đại úy…
Hoàng đứng dậy khi thấy Đăng giơ lên cao cái ống liên hợp. Không
biết bên đầu kia nói gì chỉ thấy Hoàng nói nhỏ.
– Cám ơn tiểu đoàn phó…Tôi sẽ cho người lên ngay…
Đưa ống liên hợp cho Đăng Hoàng quay qua nói với Minh.
– Tiểu đoàn săn được một con nai và một con heo rừng lớn lắm nên
xẻ thịt chia cho bốn đại đội. Ông với lính đi lãnh phần của mình về chia cho bốn
trung đội…
Lính hò reo khi nghe có được phần thịt tươi. Họ rủ nhau đi kiếm
gia vị và rau cải về làm bữa ăn thịnh soạn. Bốn giờ chiều. Hai mươi mấy người vừa
lính, hạ sĩ quan và sĩ quan ngồi quây quần bên bữa tiệc thịt rừng. Một thùng đại
liên rượu đế được mở ra. Rượu bốc mùi hăng hăng khiến cho Chinh nhăn mặt.
– Mẹ… Mấy thằng bán rượu ham làm giàu đổ cả tấn an-côn vô uống
nhức đầu thấy bà…
Hoàng cười.
– Thì ông uống bia đi…
Đi cái trót cạn chung rượu đế Chinh cười chúm chiếm.
– Uống bia thời đâu có sỉn. Người ta say mà mình tỉnh nghe nó kỳ
kỳ làm sao…
Thượng sĩ Minh nói với Hoàng.
– Dô đi ông thầy… Có tôm khô với củ kiệu nữa…
Hoàng gật gù.
– Cái món tôm khô củ kiệu này nhậu bắt lắm. Ủa mà của ai vậy?
Đăng lên tiếng.
– Của tôi đó ông thầy… Má tôi bả gởi ra…
Đón chung rượu đế Hoàng ực một hơi xong khà tiếng lớn.
– Chà… Rượu này bốc lửa à nghen…
Chỉ cần hai vòng là mặt mày của mọi người đỏ lên cùng với ăn bạo,
nhậu mạnh và cười đùa lớn hơn và văng tục cũng nhiều hơn. Chỉ có Hoàng là không
có văng tục hay chửi thề. Lính mà không chửi thề hay văng tục thời không phải
là lính. Ông thượng sĩ Minh thường nói đùa với Hoàng như vậy. Vị đại đội trưởng
chỉ cười không nói gì thêm. Dù đi lính bảy năm Hoàng vẫn còn nhiều cái chất thư
sinh. Tính tình vui vẻ nhưng trầm lặng anh không thích la cà ở vũ trường, phòng
trà hoặc bia ôm như nhiều người khác. Họa hoằn lắm vì lời mời của những vị sĩ
quan khác anh mới tháp tùng với họ đi nhậu vài ly bia.
– Dô đi ông thầy… Hết chung đế này là mình bắt qua thằng vĩnh tòn
ten…
Ực cạn chung rượu đế Hoàng gấp miếng thịt nai nướng bỏ vào miệng.
– Món này là món gì dậy?
Quốc cười hà hà.
– Nai nướng đá đó đại úy…
Nhai nhai miếng thịt nai Hoàng gật gù.
– Ngon… Tôi chưa bao giờ ăn nai nướng đá…
Mọi người cười ồ. Minh lên tiếng với giọng nửa đùa nửa thật.
– Ở Sài Gòn người ta gọi là nai nướng vỉ. Ở đây mình không có vỉ
nên tụi này dùng đá cục bởi vậy mới có tên nai nướng đá…
Chuẩn úy Hân, trung đội trưởng trung đội 1 cười sặc sụa khi nghe
ông thường vụ đại đội giải thích. Quốc, chỉ huy trung đội 2 hỏi.
– Mình có mấy món tất cả?
– Ba… Món thứ nhất là nai nướng đá. Thứ nhì là nai núc nắc và cuối
cùng là nai ở truồng…
Mọi người cười bò vì câu trả lời của trung sĩ nhất Phan, trung đội
phó trung đội 3. Chinh nói trong tiếng cười.
– Tại sao gọi là nai ở truồng?
– Nai núc nắc một hồi thời quần áo tuột hết thành ra nai ở truồng…
Ngồi ở cuối bữa tiệc Đăng cười phun cả miếng thịt đang nhai. Còn
Hoàng dù tính ít nói cũng phải bật cười.
– Ủa còn thịt heo rừng đâu?
Hoàng hỏi. Thượng sĩ Minh cười hà hà.
– Chưa ăn được ông thầy ơi… Con heo rừng thịt dai còn hơn cao su
của đồn điền Michelin nên tôi cho tụi nhỏ hầm tới ngày mai mới nhai được…
Hết thùng rượu đế là mọi người bắt đầu sần sần, ăn uống, cười
nói bạo hơn. Sáu giờ chiều tiệc tan vì rượu hết và thức ăn cũng không còn miếng
nào.
Không gian im lìm. Hoàng lững thững bước dọc theo con đường mòn
từ chỗ đại đội đóng quân về bộ chỉ huy tiểu đoàn. Những ngọn đồi trọc lơ thơ
vài thân cây. Xa thật xa con đường số 1 uốn lượn. Mấy mái nhà xám mốc. Nhìn thời
gần nhưng muốn đi tới xóm nhà dân ở cũng phải mất gần một giờ lội bộ. Đốt điếu
thuốc bastos xanh Hoàng ngước nhìn về hướng nam. Trong bóng tối chập choạng và
giữa bầu trời mênh mông xa thẳm ở đâu là Sa Huỳnh? Ở đâu là hình bóng người ni
cô? Người đang làm gì. Tụng kinh? Lần tràng hạt? Tọa thiền hay nhớ nhung. Người
lính chiến si tình cười một mình.
Đợi cho người dân làng đưa thư đi khuất xuống đồi Sa Huỳnh mới
ngắm nghía phong thư nhầu nát của Hoàng. Tựa lưng vào thân cây ni cô nhẹ xé
phong thư. Cử chỉ của ni cô thận trọng như nâng niu và âu yếm một vật trân quý.
Sa Huỳnh đã chờ đợi, mỏi mòn trông ngóng thư của Hoàng hơn hai tháng nay.
– Quảng Ngải… Tháng 10 năm 1974…
Sa Huỳnh ơi… Sa Huỳnh… Tôi gọi hoài tên người mà không nghe có
tiếng trả lời…
Ngưng đọc Sa Huỳnh mỉm cười nói thầm trong trí của mình ” Tôi
trả lời mà tại ông không nghe… Ông ráng chịu đi…”.
– Tôi gọi tên ” em “…
Sa Huỳnh nghe hai má của mình nóng bừng cảm giác thẹn
thùng lẫn sung sướng. Lần đầu tiên ni cô mới được một thanh niên gọi mình bằng
danh xưng thật êm ái và dịu dàng; thật tình tứ và lãng mạn.
– Tôi xin phép Sa Huỳnh được gọi bằng hai tiếng thương
yêu này. Em chịu không?
– Chịu…
Trong sát na của vô thức Sa Huỳnh đã buột miệng thốt ra tiếng
này. Khi nói xong rồi ni cô mới biết bèn đưa tay lên bụm miệng của mình lại. Liếc
nhìn thấy chung quanh vắng lặng ni cô cúi đầu vào trang thư của người lính chiến
si tình.
– Dù em có buồn, có giận hoặc em không chịu; tôi cũng gọi
vì đó là tiếng gọi phát ra từ chân tâm tự tánh của tôi, một người trần tục đang
yêu thương và sầu khổ bởi tình yêu của mình. Sa Huỳnh ơi… Tôi nghĩ tới em giữa
ban ngày ngồi bó gối trong hầm núp. Chiến trận mỗi ngày một thêm lan rộng cũng
như cường độ càng thêm ác liệt. Kẻ địch nhiều hơn, súng ống tối tân hơn và điên
cuồng hơn. Pháo của chúng rớt vào chỗ đóng quân nhiều hơn. Trong lúc đó tôi và
các anh em đang phải chiến đấu trong cực cùng thiếu thốn. Đạn dược bị cắt giảm,
lương thực bị hạn chế, người bị thương hay chết nằm chờ cả ngày cũng không thấy
máy bay tản thương. Tôi và anh em đang đánh nhau trong nỗi cô đơn, cảm thấy
mình đang bị bỏ rơi. Nhân số đông gấp ba lần, súng đạn nhiều gấp trăm lần, vũ
khí tối tân gấp mười lần; kẻ địch giống như đàn ong có nọc độc châm chích tôi
và lính tới lúc kiệt sức. Sa Huỳnh ơi tôi sợ sẽ không có dịp may để gặp lại em,
được nhìn vào mắt em và nói Anh Yêu Em…
Sa Huỳnh bật lên tiếng khóc âm thầm. Nỗi lo âu cho tính mạng, nỗi
sợ hãi không nhìn thấy lại Hoàng khiến cho ni cô cảm thấy hai chân mình run rẩy
như muốn khụy xuống.
– Hoàng ơi… Hoàng không thể chết… Tôi yêu Hoàng…
Sa Huỳnh kêu lên trong vô thức. Nước mắt ứa ra thành dòng nhỏ
lên trang thư tình, người ni cô run tay lật qua trang khác.
– Đêm qua Việt Cộng lại tấn công vào vị trí của đại đội
nhưng bị tôi và lính đẩy lui. Tuy nhiên người chết nhiều lắm. Lính bên mình
cũng chết mà bên kia còn chết nhiều hơn. Xác nằm la liệt trên tảng đá, thân
cây, miệng hầm. Xác cụt đầu, mất tay, đứt phân nửa người, mắt mở trừng trừng
như ngạc nhiên. Tôi cũng bị thương nhưng nhẹ hơn một số lính trong đại đội. Sa
Huỳnh chắc còn nhớ ông thượng sĩ già dẫn lính lên chùa làm cỏ không? Ổng chết rồi.
Chết đêm hôm qua. Hầm núp của ổng bị nguyên một trái hỏa tiễn 122. Tội nghiệp ổng
chưa kịp thấy mặt đứa con gái út và cũng là đứa con gái duy nhất trong gia đình
có năm đứa con trai. Còn nhiều người quen chết lắm. Sự mất mát thật đau lòng và
thê thảm. Đại đội của tôi trong vòng một tháng chỉ còn có tám mươi người. Người
chết thời yên phận chỉ riêng người còn lại phải sống trong lo âu và phập phòng
chờ tới phiên mình…
Sa Huỳnh gấp lá thư dài mấy trang của Hoàng lại. Nàng không thể
đọc tiếp vì nước mắt ứa ra càng lúc càng nhiều. Đưa tay áo lau nước mắt nàng
thì thầm trong tiếng nức nở.
– Hoàng ơi… Hoàng ơi… Ráng mà sống nghen Hoàng… Sa Huỳnh sẽ cầu
nguyện đức Phật tổ phù hộ cho Hoàng và lính của Hoàng, cho tất cả mọi người…
Hoàng đừng chết nghen Hoàng… Sa Huỳnh yêu Hoàng… Em yêu anh…
Sa Huỳnh giật mình thảng thốt khi nói ra ba tiếng đó. Ni cô biết
mình đã nói thật với lòng mình. Tình yêu bấy lâu nay bị kềm hãm đã nổ bùng ra,
bứt phá mọi giới hạn, ngăn giữ để tự do tuôn chảy như dòng sông. Gấp mấy trang
thư vào phong bì đoạn bỏ vào túi áo của mình ni cô bước ra giếng nước. Màu nước
trong phản chiếu khuôn mặt nhiều lo buồn và ưu tư. Sa Huỳnh đã hầu như đánh mất
cái thanh tịnh của một kẻ tu hành. Nàng bị tình yêu của người lính chiến quấy rầy,
lôi cuốn, đẩy đưa ra khỏi mái chùa, tiếng mỏ và câu kinh. Soi mặt xuống giếng
nước trong nàng tự hỏi yêu có phải là một cái tội không? Một kẻ tu hành như
mình có nên yêu không? Mình có nên yêu Hoàng không? Yêu Hoàng mình phải làm
sao? Yêu Hoàng mình phải làm gì? Nhìn xuống lòng giếng âm u nàng thấy một đôi mắt
đỏ au và buồn bã. Một khuôn mặt âu sầu, dã dượi. Nụ cười gượng gạo.
No comments:
Post a Comment