Tuesday, October 6, 2020

Cô Miền Nam Học Trò Miền Bắc

 ______

(A true story, viết từ thế kỷ trước. )
***
Sài Gòn, 1977…
- Các đằng ấy ơi, cho tớ chơi với!
Con nhỏ cố nở nụ cười thân thiện nhất với ba đứa bạn khác cùng lớp đang đánh đũa trước sân. Một đứa đang định tung trái banh lên, dừng lại nói
-Tụi tao chơi gần hết bàn rồi, để mai rồi mày chơi chung nghe.
Con nhỏ đành buồn rầu quay lại. Đây không phải là lần đầu tôi để ý thấy đã gần một tháng rồi, con bé Vân vẫn chưa hội nhập được với chúng bạn.
Nó là đứa học sinh từ miền Bắc vào đầu tiên trong lớp tôi.
Nhớ lại sau hôm khai giảng niên khóa mới được hai ngày, tôi đã giật mình lo lắng khi bỗng nhiên bị gọi lên phòng Giám Hiệu. Chuyện gì? Đối với tình hình bây giờ, bị gọi lên văn phòng riêng rẻ như lúc này là một dấu hiệu không tốt. Nhưng sau khi “tự kiểm điểm”, tôi thấy mình không phạm điều gì sai nên cũng yên tâm đôi chút.
Mụ hiệu trưởng đón tôi niềm nở hơn mọi ngày. Thấy tôi đi vào, một người đàn ông trong trang phục bộ đội với cái nón cối trên bàn ngừng tay vấn thuốc đứng dậy chào. “Đồng chí” Trần Bình, theo lời giới thiệu, là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội đang trong thời gian công tác dài hạn tại thành phố Hồ Chí Minh. Vân là con gái ông ta. Con bé hôm đó mặc áo bà ba trắng, quần satin đen, tóc dài và rậm kẹp lại gọn gàng phía sau … Nhìn Vân lễ phép chào, tôi bỗng nghe bỗng nghe một chút xót xa. Quả là một xưởng đúc tuyệt vời! Con nhỏ trông không khác chi một cô cán bộ tí hon. Màu sắc duy nhất trên người con bé là đôi dép rỗ màu vàng nhạt. Đôi dép vẫn còn mới lắm.
Tôi dắt Vân về lớp và xếp ngồi bàn đầu để có thể dễ dàng “chú ý giúp đỡ” như lời cha nó ân cần nhắn nhủ. Bỏ qua những gì bên ngoài, Vân cũng khá xinh xắn, gương mặt bầu bĩnh, nói thưa lễ độ. Tuy chán ghét mụ hiệu trưởng đến thậm tệ, không chút cảm tình với người đàn ông trong bộ quân phục chuyên chính màu xanh ấy, tôi không thấy có gì khác giữa Vân và mấy đứa trẻ khác.
Tôi tội nghiệp Vân, nhưng không biết làm cách nào giúp nó. Trường hợp của Vân đặc biệt quá. Những học sinh trong lớp tôi chúng nó đã học chung, chơi chung, biết nhau từ mấy năm trước, duy chỉ có Vân là mới lần đầu đến đây. Con nít chơi với nhau là do chúng nó tự ý chọn bạn, cho dù cô giáo cũng không thể có ý kiến. Tôi biết trong lớp có đứa cha là lính Cộng Hòa đã hy sinh đền nợ nước. Một số khác là con em của sĩ quan hay công chức dưới chế độ cũ đang bị đi học tập cải tạo tại một vùng hoang vu nào đó, chưa rõ ngày về... Có phải vì vậy mà bọn chúng sinh ra thành kiến với con bé Vân từ miền Bắc vào đây?
Anh Hai tôi là Đại Úy Biệt Động Quân, cũng khăn gói quả mướp theo lời nửa dụ dỗ nửa đe dọa của chính quyền nay đã hơn một năm. Tin tức duy nhất nhận được là vài lá thư gởi về mà địa chỉ là một hòm thư vô nghĩa. Lá thơ theo một khuôn mẫu nhất định như trăm ngàn cái khác, trấn an và động viên gia đình tham gia lao động, triệt để thi hành chính sách của nhà nước. Chị dâu tôi mòn mỏi trông chờ. Quỹ gia đình thu hẹp, chị phải dấn thân ra chợ trời chụp giựt, tráo trở để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Những lúc tôi sang thăm cháu là dịp chị mở bầu tâm sự. Chị nguyền rủa, oán than không tiếc lời với thời thế đảo diên sâu bọ làm người …
Người lớn oán hờn làm trẻ con cũng ảnh huởng. Dĩ nhiên những mái đầu thơ chưa đủ trí khôn để hiểu thế nào là độc tài, là đảng trị, là mất mát tự do …nhưng thời thế đã tạo chúng nó đủ khôn để biết vì đâu gia đình chúng phải lâm vào hoàn cảnh phân tán, khó khăn như hiện nay.
Tôi biết Vân đang cô đơn và lạc loài giữa một môi trường xa lạ. Nhưng mỗi lần nhìn nó, tôi không khỏi liên tưởng tới mụ hiệu trưởng từ miền Bắc vào đây. Mụ cũng đi làm bằng áo bà ba trắng, quần satin đen khuôn mẩu đó, ngồi bắt chân lên ghế salon trong văn phòng say sửa giảng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi cũng thấy qua con bé, cha nó hôm gặp mặt. Mặc dù ông ta vẫn lịch sự, không có gì quá đáng, tôi cũng không khỏi mang tư tưởng đây là người đã cướp đi tất cả tự do của toàn miền nam, trong đó có tôi. Không chừng ông ta đã đối diện với anh tôi trong một trận chiến nào đó.
Vân học thua kém chúng bạn rõ ràng. Những môn phải học thuộc lòng, con bé tương đối chu toàn một cách chăm chỉ. Nhưng về toán số thì thật bết bát. Những bài toán đố đơn giản với trình độ học sinh lớp bốn cũng khiến con bé ngồi cắn bút. Tôi cũng không rõ ngoài Bắc nó đã học lớp mấy, nên khi lên gặp mụ hiệu trưởng, tưởng là sẽ tìm hiểu thêm trình độ con bé để xếp lớp cho đúng. Ai ngờ mụ trừng mắt nhìn tôi:
- Cô bảo sao? Vân mà kém toán ư? Vô lý thật. Nó là học sinh tiên tiến, và xong lớp hai ở Hà Nội rồi. Cô cũng biết trung học ở miền Bắc ưu việt chỉ 10 năm thôi là đã tương đương với lớp 12 trong này rồi (mụ hãnh diện). Nếu cứ học ngoài ấy, nó lên lớp ba, là phải bằng… lớp năm trong này cơ đấy. Tôi xếp nó vào lớp bốn của cô để thử, rồi tính sau…
Mụ ngừng một chút lấy hơi, rồi tiếp:
- Cô có theo đúng chương trình không? Tôi muốn xem lại giáo án.
Trời ơi mụ lý luận thật vô lý. Tôi định cãi. Nhưng câu cuối cùng của y thị làm tôi chột dạ, ngậm bồ hòn nuốt xuống. Nói thêm với người đàn bà ngu dốt này chỉ vô ích. Không chừng mụ lại ghép cho tôi tội phản động, bài bác chế độ … thì mất việc. Với hoàn cảnh hiện nay, mất việc là không lao động, là kinh tế mới. Thôi được, mụ là kẻ chiến thắng làm vua, tôi thua phải làm giặc thôi!
Chiến tranh đã qua, Nam Bắc một nhà cùng nhau tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Những cái loa thông tin nhai đi nhai lại một điệp khúc cằn cỗi và trơ trẽn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn miền Nam đã thấm đòn. Người ta bảo nhau trông thấy Văn Vĩ lái xe Honda dạo mát Sàigòn! Họ bàn nhau về những chuyến vượt biển tìm tự do, nhưng tôi biết mình không có diễm phúc đó, chuẩn bị tinh thần làm cái cột đèn bất đắc dĩ.
Một người bạn tù chung trại vốn là bác sĩ quân y có chuyên môn nên được thả về trong đợt đầu tiên ghé qua báo tin, anh Hai tôi đã ra đi vĩnh viễn. Mấy tháng trước, anh và một số sĩ quan khác chung cảnh ngộ đã cùng nhau ngưng lao động, và đòi hỏi ban quản giáo nếu họ có tội gì hãy đưa ra tòa xét xử công bằng. Tại sao lừa dối họ nói đi học tập chỉ10 ngày mà nay đã hơn một năm trôi qua, ai cũng để lại vợ dại con thơ không rõ cuộc sống thế nào, đem thân khổ sai lao động trên những vùng rừng thiêng nước độc mà ngày về tăm tối mù khơi.
Nhóm sĩ quan đó bị kết tội toan tính chống đối nhà nước, biệt giam với những hình phạt khắc nghiệt. Anh Hai tôi vốn đang bị bệnh, thể chất suy yếu nên không kham nổi, ra đi về miền vĩnh cửu. Anh mất đã mấy tháng rồi nhưng gia đình, cha mẹ, vợ con hoàn toàn không hay…
Tôi lãnh nhiệm vụ qua báo tin dữ cho chị Hai, vì người bạn chỉ đến nhà ba mẹ tôi nói vài câu ngắn rồi phải đi ngay. Tối hôm đó, mắt tôi quầng đỏ ấp a ấp úng không thành lời. Chị vẫn bình tĩnh hỏi chuyện gì đã xẩy ra cho anh Hai? Tôi như được mở khóa, khóc òa như đứa trẻ, kể lể. Chị ngồi bất động, không một phản ứng. Nhìn chị, tự nhiên tôi cảm thấy rờn rợn. Người đàn bà trước mặt chỉ hơn tôi hai tuổi mà như xa cách đến hai mươi năm. Chỉ hai năm trời tảo tần nuôi con, nuôi chồng, đã tàn phá dung nhan chị đến độ tàn nhẫn. Nay niềm hy vọng cuối cùng đã tắt. Chị ngồi yên hồi lâu, lẳng lặng đứng dậy bên giường ôm thằng Út lúc đó đang ngủ vùi vào lòng, xua tay ra hiệu cho tôi đi về. Tôi biết mình không thể nói được điều gì thêm. Tất cả những lời an ủi hay khuyên nhủ lúc này chỉ là vô nghĩa. Bước ra cửa, tôi quay lại nhìn và thấy giọt nước mắt đầu tiên của chị rơi trên mặt thằng bé.
***
Hòa bình rồi ư?
Hoà bình rồi mà sao súng vẫn nổ trên khắp mọi miền. Đâu đó vẫn còn có kẻ ngã gục, còn tù tội, chống đối. Suốt hai mươi năm nội chiến, gia đình tôi đã may mắn toàn vẹn. Anh Hai tôi là người duy nhất trong gia đình chính thức cầm súng chiến đấu, nhưng đã trở về với mái ấm gia đình sau lời kêu gọi đầu hàng của cấp lãnh đạo từ tháng tư năm ấy. Nay anh đã nằm xuống, hy sinh trong muộn màng và tức tưởi. Sự ra đi của anh đã tác động vào tâm lý tôi mãnh liệt.
Ngày Sàigòn rơi vào tay cộng sản, gia đình tôi cũng như tất cả người miền nam dù biết là tương lai bất định, nhưng dù sao cũng còn niềm hy vọng mong manh: hòa bình. Cộng sản hay quốc gia, cũng là người Việt. Giải đất này từ bắc chí nam đã rách nát sau bao năm chịu đựng bom đạn. Đã đến lúc mọi người dẹp hết hận thù, chủ nghĩa, để cùng nhau hàn gắn.
Mọi hy vọng chỉ là cái bánh vẽ to tướng. Dân miền Nam thấm đòn. Đã muộn rồi. Mỹ đã cút và Ngụy đã nhào. Chính phủ mới nắm chặt bao tử người dân qua chính sách hộ khẩu. Hàng ngũ công an dày đặc khắp phố phường làm dân chúng hết đường cục cựa, chỉ còn âm thầm chịu đựng và… nguyền rủa.
Đến bây giờ tôi mới biết thế nào là căm hờn. Thời gian qua, tôi cũng như bao người khác, chán chường một cách thụ động. Nhưng ngoài những mất mát chung, chế độ cũng chưa đụng chạm gì đến gia đình tôi. Nhìn chung quanh, những gia đình với nhiều bất hạnh; những người mất nhà mất cửa từ vùng kinh tế mới trở về thành phố lang thang đói khát không hiện tại không tương lai.. tôi đã thấy thỏa mãn vì hoàn cảnh mình cũng còn sáng sủa hơn bao người khác.
Tôi đã lầm. Sự yên ổn hiện tại của mình chỉ là tạm thời. Chế độ sẽ không chừa một ai khi thời gian cho phép. Cái chết của anh Hai tôi là phát súng khai hỏa đầu tiên. Tôi căm hờn nhìn những cái nón cối, đôi dép râu, khẩu súng AK … những thứ tiểu biểu tượng trưng cho chế độ.
Vân đập vào mắt tôi mỗi ngày qua cách ăn mặc và cái giọng Bắc Kỳ chua chua của nó. Trước kia tôi còn thông cảm, giúp đỡ Vân, nay bỗng nhiên tôi cảm thấy trở nên xa cách nó như những học trò khác của tôi không khác chút nào. Tôi biết mình đang sai lầm khi tự nhiên ghét bỏ Vân, nhưng cái chết của anh tôi như đám mây đen kịt che khuất mọi suy nghĩ công bằng mà một người lớn, có học như tôi phải nhận rõ.
Có lẽ Vân cũng thấy sự thay đổi và thắc mắc lắm. Người duy nhất trong lớp đối xử tốt với nó đã về hùa với đám đông để nó một mình. Vân càng mặc cảm hơn khi biết mình thua kém bạn bè trong các môn học. Đôi khi nhìn con bé ở lại trong lớp lơ đãng nhìn các đứa khác chơi đùa ngoài sân trong giờ giải lao, tôi cảm thấy tội nghiệp. Nhưng rồi hình ảnh anh tôi ngã gục nơi trại cải tạo nổi lên...
***
Sau khi vào lớp độ nửa tiếng, tôi được gọi lên phòng Giám Hiệu.
Thôi chết! Hậu quả đã đến như tôi lo sợ, nhất là hôm nay Vân vắng mặt.
Sự việc bắt đầu từ tuần trước, khi trong giờ sinh hoạt tôi chọn bài hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” cho cả lớp cùng ca. Thay vì câu “râu bác dài tóc bác bạc phơ”, hai ba cái miệng từ cuối lớp gào lên “chân bác dài, bác đạp xích lô” tôi thấy Vân quay lại nhìn thằng Tùng to giọng nhất. Thằng nhỏ không biết tai họa sắp tới, còn làm mặt xấu chọc Vân. Tôi làm ngơ, vội vàng chấm dứt ngay giờ sinh hoạt và để ý Vân. Nhưng con nhỏ không để lộ nét gì khác hơn ra ngoài mặt.
Một tuần qua, tôi hồi hộp sợ Vân lên báo cáo mụ hiệu trưởng. Thằng Tùng chắc chắn bị đuổi học vì tội phản động. Ba mẹ nó ở nhà dĩ nhiên gánh lấy hậu quả. Và tôi cũng bị rắc rối to, nhất là đã lơ qua không xét đến.
Khi lên tới phòng giám hiệu và nhìn vào, tim tôi chùng hẳn xuống vì quả nhiên thấy Vân lấp ló trong đó. Niềm lo âu đã thành sự thật! Không còn đường tháo lui, đành đẩy cửa bước vô và ngạc nhiên vì người đứng dậy chào không phải mụ hiệu trưởng đáng ghét. Người đàn ông là cha của Vân. Ông ta vẫn trong bộ quân phục màu xanh, cái nón cối để bên cạnh như lần đầu gặp gỡ cách đây mấy tháng. Hắn đến đây để bắt tôi ư? Câu hát giễu vô ý thức của một đứa trẻ có thể đưa đến kết quả nghiêm trọng như vậy sao? Tôi thực sự lo sợ.
Nhưng cha của Vân không đi ngay vào vấn đề như tôi nghĩ. Sau vài câu chào hỏi xã giao, ông ta quanh co hỏi thăm tình hình nhà trường học sinh … đủ mọi chuyện. Đôi khi đi vào chuyện cá nhân riêng tôi nữa. Hắn muốn gì đây? Định giở trò mèo vờn chuột ư? Tự ái sùng sục nổi dậy đẩy lui niềm lo sợ lúc ban đầu. Tôi thấy mình đang đối diện với một kẻ thù xảo trá. Hắn đã chiến thắng chúng tôi bằng vũ lực, và nay đang muốn đánh gục tôi bằng tâm lý. Bỗng nhiên tôi không còn khiếp sợ hắn nữa. Chuyện đến nước này muốn bắt, muốn đuổỉ dạy, muốn học tập cải tạo gì đó… thì cứ làm. Cùng lắm cũng chết như anh tôi thôi chứ có gì phải sợ! Tôi ngang nhiên đối đáp với tất cả niềm ấm ức bấy lâu chất chứa về tất cả mọi vấn đề từ phương pháp giảng dạy, chương trình, giáo án v.v… và nhất là nhấn mạnh về trường hợp Vân không thể theo nổi các bạn cùng lớp khác. Hắn kiên nhẫn nghe, thỉnh thoảng gật gù. Tôi hăng say bày tỏ tư tưởng không chút e ngại, cảm thấy sung sướng vô cùng vì đã hiên ngang đối diện với hoàn cảnh.
Tôi ngưng nói, ngạo nghễ nhìn hắn. Muốn bắt cứ bắt. Muốn gán cho tôi bao nhiêu chữ phản động, chống đối…là tùy ông.
Nhưng người đàn ông nhìn tôi thật lâu, như đang cố ghi lại những gì tôi mới bày tỏ vào đầu, và cuối cùng chậm rãi nói
- Cám ơn cô đã cho biết những điều vừa rồi. Quả thực tôi chưa bao giờ nghĩ đến nó là như vậy. Dù sao, tôi đến đây hôm nay là để cùng cháu Vân từ giã cô. Tuần tới tôi trở ra công tác tại Hà Nội và Vân sẽ theo tôi ra ngoài ấy.
Câu nói thật bất ngờ làm tôi không tin ở tai mình. Ông ta và Vân gọi tôi lên đây chỉ để từ giã, không phải để bắt mình ư? Tôi quay sang nhìn Vân và nghe nó nói:
- Thưa cô, em xin chào cô.
Sự việc xẩy ra làm tôi hơi lúng túng. Thì ra mọi chuyện không như tôi nghĩ. Vân không báo cáo gì về vụ thằng Tùng. Bỗng dưng tôi thấy hổ thẹn. Mình đã ngờ oan, lại thêm đối xử không đẹp với Vân gần tháng qua.
Lần đầu tiên sau cái chết của anh Hai, tôi trở về với bản ngã vô tư của mình. Ô hay chế độ có đầy dẫy hận thù và nghiệt ngã, đó là chuyện người lớn. Trẻ thơ ở đâu cũng chỉ là những trang giấy trắng. Nếu tôi không thể tô xanh điểm hồng lên những trang giấy ấy, thì ít nhứt cũng không có quyền bôi lọ bằng những giọt mực đen. Tôi cảm thấy cay cay ở mắt. Vân rõ ràng chỉ là một học trò thơ ngây như bao nhiêu học trò khác của tôi. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Trong đầu óc của Vân chắc chắn vẫn chứa đầy bác và đảng, đoàn và đội… nhưng không ai chọn được nơi mình sinh ra.
Năm năm trời làm nghề giáo, trường hợp học trò nghỉ học giữa niên khóa là chuyện đã xẩy ra. Những lần ấy, tôi thường cảm động nắm tay chúng để nhắn nhủ, cầu chúc em những lời sau cùng. Nhìn đứa học trò bé dại vì hoàn cảnh phải rời ghế nhà trường, tôi thường bâng khuâng khi nghĩ rằng trong lớp từ đây sẽ thiếu vắng một bóng dáng quen thuộc, giọng nói ngây thơ, nhưng tôi cũng cảm thấy tâm hồn yên ổn vì những ngày tháng qua đã hết lòng thương yêu, dạy dỗ chúng. Đối với Vân lúc này, tôi thấy có sự thiếu sót, một món nợ ân tình với con bé. Tôi muốn chạy lại ôm Vân vào lòng, quên đi tất cả những hận thù, bom đạn, chủ nghĩa…, những gì đã chia cách hai chúng tôi. Chỉ có tình thương, tình người, tình nghĩa cô trò…
Cha của Vân nhìn đồng hồ và đứng dậy:
- Đến giờ chúng tôi phải lên đường. Xin chào cô.
Ông ta bắt tay tôi từ giã. Vân lẳng lặng theo sau, nó lí nhí:
- Thưa cô em đi.
Cổ tôi nghèn nghẹn, muốn nói vài lời, nhưng không thốt lên được, chỉ gật đầu.
Ra tới cửa, ba của Vân bỗng dừng lại, hơi đắn đo một chút rồi nói:
- Tôi muốn thành thực khuyên cô một điều. Những gì cô vừa nói với tôi, đừng nói thế với ai cả. Không thay đổi gì được đâu. Với thời thế bây giờ, cô cũng biết…
Ông bỏ dở câu nói. Tôi gật đầu hiểu ý, và nhìn hai cha con bước mau trên sân trường đầy nắng.
***
Món nợ ân tình của cô giáo Oanh, nhân vật xưng “tôi” từ đầu câu chuyện với cô bé Vân đó, đến hơn ba mươi năm sau mới được trả, trên mảnh đất tự do có tên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này.
Cô học trò từ miền bắc xã hội chủ nghĩa đi lao động xuất khẩu tại Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Năm 1989, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu, Vân đã mau mắn xin ở lại tỵ nạn với nước Đức tự do, không về Việt Nam nữa. Ba năm sau, cô gặp một người Việt du lịch từ Hoa Kỳ sang, kết hôn, và di dân theo chồng về Mỹ. Cô đang làm phụ tá văn phòng cho một bác sĩ Việt Nam ở Cali.
Cô giáo Oanh ở lại Sài Gòn, lập gia đình cùng một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa từng bị đi học tập cải tạo. Hai vợ chồng và gia đình sau đó được chương trình HO đưa sang định cư tại Cali.
Cô nay đã lớn tuổi, hồi hưu, và một hôm đi khám bác sĩ.
Hai người gặp lại nhau tại phòng mạch. Cô dĩ nhiên không nhận ra trò, nhưng trò đã nhận ra cô. Hai cô trò đã ôm nhau mừng mừng tủi tủi sau hơn ba mươi năm xa cách.
Còn ông cán bộ Trần Bình?
Vân ngậm ngùi cho hay cha của cô đã tử trận trong cuộc chiến biên giới 1979 với Trung Cộng. Mẹ con Vân dắt díu nhau vô Sài Gòn sinh sống. Nhân chương trình xuất khẩu lao động, bà đã dùng tất cả tài sản dành dụm được chạy chọt cho Vân được đi lao động sang Đông Đức, dặn dò con tìm cơ hội đi luôn, nếu có cơ hội hãy đào thoát về miền tự do, đừng bao giờ trở lại Việt Nam nữa.
Vân đã thành công. Cô nay đã là một công dân Mỹ. Các con của Vân đều được sinh ra trên đất nước tự do nhân ái này.
Về phần tôi, tác giả bài viết, chưa bao giờ đưọc găp Vân, chỉ may mắn được cô giáo Oanh kể lại mối duyên phận cô trò với cô học trò tên Vân đó mà thôi.
./.
ThaiNC
No photo description available.

83


No comments: