HOÀNG THỊ TỐ LANG
Đêm qua dễ chừng đến 2 giờ tôi mới chợp mắt được, vậy mà 6 giờ sáng tôi
đã thức giấc. Tung chăn dậy. Tôi khép nhẹ cửa phòng bước ra ngoài. Không thể ngủ
thêm nữa nhất là buổi sáng chủ nhật. Cái thói quen đã từ bao năm nay là như thế.
Một buổi sáng chủ nhật cho riêng mình. Tôi thích một mình như thế nầy trong
sáng nay. Bên tách cà phê. Hớp từng ngum nhỏ tôi đưa mắt nhìn qua song cửa.
Thành phố tôi ở gió nhiều quá. Đêm qua gió ơi là gió. Không ngủ được, tôi nghe
cả tiếng gió lùa qua khe cửa. Lá vàng sáng nay rụng nhiều quá, phủ đầy
sân. Trải vàng khắp lối đi. Mùa thu đã về tự bao giờ.
Tôi đến thành phố nầy cũng một buổi chiều thu của 30 năm về trước. Lạc lỏng.
Bơ vơ. Chiếc áo khoác của cơ quan từ thiện cho không đủ ấm. Từng cơn gió lướt
qua cho lá vàng bay, cho tôi co ro, cho tôi bậm môi, buồn tủi. Một chút ngậm
ngùi nào đó cho tôi nghe mằn mặn bờ môi. Lá vàng cả thành phố. Lá bay
trong gió. Tôi ngất ngây trước cái đẹp não nùng của mùa Thu xứ người mà lần
đầu tiên tôi nhìn thấy trong đời.
Rạch Gíá quê tôi hai mùa mưa nắng, cho tôi say mê mùa Thu qua sách vở, qua
bài Gỉang văn đầu tiên của năm xưa mới bước vào ngưỡng cửa Trung Học "Hàng
năm cứ vào cuối Thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây
bàng bạc. Lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường...
Buổi mai hôm ậy. Một buổi mai đầy sương thu và gió lanh. Mẹ tôi âu yếm nắm lấy
tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường nầy tôi đã quen đi lại
lắm lần nhưng lần nầy tự nhiên tôi thấy lạ Cảnh vật chung quanh đều thay đổi vì
chính lòng tôi hình như có sự thay đổi lớn. Hôm nay tôi đi học". Cái
áng văn mượt mà ấy đã theo tôi suốt chặng đường học sinh cho mãi đến
ngày hôm nay và hình ảnh cô giáo sư trẻ tuổi vơí vóc dáng nhỏ nhắn, xinh
xinh và với bài Giảng văn đầu tiên đã ướp hình ảnh mùa thu vào tâm hồn tôi
từ thuở ấý và suốt 3 năm liên tiếp của bậc Trung học tôi đã được nghe từ
cô, say mê nhừng mùa thu tuyệt vời của bao thi nhân mà Cô đem vào lớp học như:
Ngày đó trong những bài thơ mùa Thu tôi yêu nhứt ngày ấy là Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư. Chỉ một bài thơ thật ngắn mà lãng đãng cả một trời thơ mộng.
Dưới trăng mờ thổn
thức.
Em nghe chăng rạo
rực
Hình ảnh kẻ chinh
phu.
Trong lòng người
cô phụ
Em nghe chăng rừng
thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác.
Rồi từ Tiếng Thu Cô dẫn học trò đi vào thế giới của Chinh phụ ngâm:
Tôi bồi hồi xao xuyến với cả một trời kỷ niệm đi về...Hay buồn hơn Thu về, se sắt cõi lòng ly biệt của Tản Đà:
"Đưa người sao không đưa qua sông.
Sao có tiếng sóng ở trong lòng.
Bóng chiều không thắm không vàng vọt.
hoặc Mõi mòn của Thanh Tịnh
mà hai câu cuối của bài thơ giọng cô chùng xuống, hụt hẩng nào nề...
Sau 1975, đắt nước đổi thay.
Tôi và Cô còn ở lại. Cô trò tôi vẫn đến trường đi dạy như xưa. Nhưng bài giảng
văn năm xưa tôi không còn có lần đọc cho học trò nghe ở buổi tựu trường nữa. Cuộc
sống hiện tại là đầu tắt mặt tối, là vật lộn với miếng cơm manh áo, là chắt
chiu từng giỏ đồ đi thăm nuôi, là những chuyến tàu ra khơi đi tìm một nơi chốn
dung thân ở một vùng trời lạ xa khác. Những chiếc áo dài xinh đẹp một thời của
Cô của tôi đâu rồi. Còn đâu hình ảnh con nai vàng ngơ ngác năm xưa. Cho đến năm
1978 lúc đó phòng Giáo Dục Tỉnh triệu tập một buổi gặp gỡ tất cả thầy cô giáo với
nhà thơ Lưu Trọng Lư. Buổi chiều đó nơi tầng dưới của trường NguyễnTrungTrực cũ
lần đầu tiên tôi diện kiến tác giả của Tiếng Thu. Bằng tất cả niềm tự tin nhà
thơ giới thiệu mình bằng sự nhắc nhở bài Tiếng thu năm xưa với mọi người
.Tôi còn nhớ ông bảo "Có lẽ trong tất cả các bạn có mặt trong hội trường
hôm nay tôi nghĩ không ai là không có lần nghe qua tiếng Thu của Lưu Trọng
Lư". Hội trường vỗ tay như một lời chào mừng nhà thi sĩ mà lần đầu tiên mọi
người gặp mặt. Tác giả đọc lại bài thơ xưa mà từng câu, từng chữ như ru hồn
người về một bến bờ mộng mơ năm nào mà giờ đây đã như xa xôi lắm rồi. Ôi
mùa Thu ngày ấy đã xa. Chỉ còn chăng chút dư hương ngày tháng cũ. Tác giả bảo
đó là bài Tiếng Thu 1 được sáng tác năm 1939 trước Cách Mạng mùa thu. Thời gian
sau tác giả ý thức được về hình ảnh của người thanh niên trong chế độ mới
ông đã sáng tác môt bài cũng là Tiếng Thu. Đó là Tiếng thu 2. Tôi còn nhớ bài
thơ như sau:
khóc trước mảnh gương soi
Xa chưa... Xa chưa
cánh bèo trôi dập dờn sóng nước
Hết rồi những đau buồn đêm trước
Lá vàng không rụng nữa
lá vàng ơi
Và con nai vàng
Cả hội trường im phăng phắc. Tác giả đọc lại từng câu và và nhấn mạnh đến tai sao "con nai vàng không còn ngơ ngác nữa". Tác giả nói nhiều lắm. Cái phân tích. Cái lập luận sắc bén nhuốm màu sắc chính tri, đứng trên lập trường của Xã Hội Chủ Nghĩa làm mọi người hụt hẩng. Tôi tự hỏi “Bài thơ một phần nào có phải chăng là nỗi lòng của tác giả. Ngay câu mở đầu của bài đã cho ta thấy ngay cái khắc khoải, niềm đau của chính mình khi nhìn lại mình trước mảnh gương soi...Tôi không muốn nhắc lại. Tôi chỉ thấy thương cảm. Một chút tội nghiệp nào đó cho thân phận con người trong một chế độ. Cái bẽ bàng của người cầm bút. Phải bẻ gãy ngòi bút để sinh tồn. Có người nghe xong bài thơ trên bảo nhỏ với nhau rằng"tiếng thu" đã chết. Tác giả của con nai vàng ngơ ngác năm xưa thật sự đã chết rồi. Còn đâu Lưu Trọng Lư của:
Một hồn thu tạnh, mơ say hương nồng.
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em. (Trăng lên, LTL)
Cô tôi cũng có mặt trong buổi
chiều hôm ấy. Tôi không hiểu Cô nghĩ sao về bài thơ ấy. Riêng tôi con nai vàng
ngơ ngác ngày xưa mãi mãi vẫn còn. Tiếng thu xưa và những sáng tác của Lưu Trọng
Lư thời tiền chiến vẫn sống mãi trong lòng mọi người vì tôi nghĩ rằng chế độ
phi nhân bản hiện tại không thể nào tạo được một Lưu TrọngLư với những áng thơ tuyệt
vời như thế, bằng chứng bài thơ Tiếng Thu 2 của ông hình như không có lần
đươc nhắc nhở đến. Có thể theo cách diễn giải của người dân miền Nam
bài thơ như một lời oán trách chế độ từ 2 câu mở đầu của bài thơ chăng và như
nói lên tâm sự và nỗi lòng của người dân Việt Nam sau cuộc đổi đời của đất nước.
Tôi chỉ suy luân như thế và có thể vì như thế bài thơ không được phổ biến rộng
rãi và dường như không mấy ai biết đến và đã chìm vào lãng quên của mọi
người.
Từ đó đến nay cũng hơn 30 năm. Chẳng biết các Thầy cô hiện diện trong buổi nghe
thơ LưuTrọng Lư có còn nhớ chăng bài thơ ấy. Riêng tôi, tôi xem buổi hôm
xưa đó như là một kỷ niệm cho môt lần được gặp nhà thơ mà mình hằng mến mộ.
Thế thôi. Tôi chỉ biết và đọc thơ ông, yêu thơ ông của ngày tháng cũ. Tôi không
cần biết và không cần tìm hiểu các sáng tác sau nầy của ông.
36 năm qua. Dòng đời biết bao thay đổi.
Tôi lưu lạc xứ người đã bao năm. Sáng nay nghe thu về tôi chạnh lòng nhớ chuyện xa
xưa. Tôi nhớ cô. Mấy năm trước lúc cô còn sinh tiền, có lần tôi nghe kể lại có
người học trò Rạch Giá xưa về quê thăm nhà có ghé thăm Cô. Cô không nhớ anh học
trò đó là ai nhưng Cô lại hỏi "Ở Canada mà em có biết TốLang không? TL
cùng ở bên ấy". Tôi nghe người bạn thuật lại mà nghe lòng rưng rưng
và tự hỏi. Không biết Cô còn nhớ bài luận văn đầu tiên của tôi ở năm Đệ Thất
mà Cô cho điểm cao nhất và Cô đọc cho cả lớp nghe không?
Bây giờ Cô tôi đã
ra người thiên cổ. Ngày cô ra đi tôi không có ở bên nhà để thắp cho cô nén
hương đưa tiễn sau cùng, nhưng cô ơi bài Giảng văn của Cô ngày nào vẫn còn đó.
Mùa thu và những dòng thơ văn lãng mạn cô gieo vào tâm hồn em ngày thơ vẫn còn
đó, dù em đi tận chân trời góc biển nào. Em vẫn nhớ. Cô ơi...
Đất khách Mùa thu 2010
HTTL
7 comments:
Hi chị Tố Lan.
Có phải cô Diễm người mảnh mai cao độ 1m50-1m6o,nếu tôi nhớ không lầm khi tôi thi vào học lớp đệ tam thì cô cũng dạy tôi, một ấn tượng mà không bao giờ tôi quên được là cuối năm học cô có cho học trò một vài người hát và sau đó cô cho một số bản nhạc, tôi được bản "Lẻ bóng". Cho đến mãi sau này tôi vẫn không hiểu do tình cờ hay cố ý mà cô cho tôi bản nhạc đó, chỉ biết rằng trong lớp chỉ có 3 đứa Bắc kỳ rau muống : tôi, Đào bá Mục và một người hay bỏ học để ở nhà tự học để thi tú tài I năm đó hình như là Duy, trong ba, tôi là đứa xấu trai nhất nên được cho Lẻ bóng chăng.
Chúc chị và gia đình an bình, mạnh khỏe trong mùa đại dịch này.
Hi anh Khiêm,
Tôi không nhớ Cô Diễm có phải là Cô dạy lớp anh Không song Cô đẹp lắm, mảnh mai và xinh như búp bê và cao như anh tả khoảng 1m5 thì phải, năm tôi vào Đệ Thất là Cô mới ra trường, có thể cô dạy anh mà tôi không biết, Cô có người anh là giáo sư Dương Khả Aí cũng là Thầy dạy Lý Hóa tôi
Kỷ niệm vẫn còn đây để ngậm ngùi anh Khiêm ạ,
Bạn anh Khiêm anh Đào Bá Mục thì tôi không nhớ song người anh bảo là Duy thì tôi nhớ là có biết anh Nguyễn Xuân Uy con nhà sách Khai Trí tại Tân Hiệp thì phải . Anh Uy thi nhảy Tú Tài và sau nầy đi du học vi` anh ấy từ Tân Hiệp ra Rạch giá ở trọ nhà gần nhà tôi mà lúc đó học trò Bắc rất ít, có thể anh Duy anh nói là Nguyễn Xuân Uy chăng?
Thấm thoát mà từ ngày ấy đến nay cũng hơn 1/2 thế kỷ ....
Trên anh công viên Mississauga lá đã vàng hết rồi phải không?
Thân chúc anh và gia đình mọi an vui và hạnh phúc
Đúng rồi chị TL. Uy chứ không phải Duy như tôi nhớ. Cô Diễm chắc là có dạy tôi, vì thời gian đó tôi chỉ thấy có một giáo sư nữ đi vào trường thôi. Thầy Ái thì dạy toán cho tôi, lý hóa do thầy Chuyết đảm trách, thầy Chuyết có đặc điểm là khi vào lớp luôn đi vuông góc.
À chị chắc có biết Thấu, Minh trắng và Ánh đằu lúc nào cũng láng học sau tôi một hai năm . Minh sau này nghe nói về làm hiệu trưởng cho một tư thục ớ vùng kinh B Cái Sắn.
Anh Khiêm,
Nghe Anh nhắc đến Thấu, có phải là Đào văn Thấu, người miền Bắc trước học ban Anh Văn, NTT, chung Lớp với Em trai tôi là Trần văn Dệt. Sau tiếp thu,tôi không còn liên lạc được với Anh ta nữa ?
Hi anh Khiêm
Tôi có biết anh Ánh, đúng như anh tả anh Ánh chải chuốt lắm và sau nầy kết hôn với con gái bà chủ nhà tên Lệ Chi , hình như bây giờ vợ chồng anh Ánh ở Úc đó anh vì nhà tôi gần trường NTT nên học sinh từ Tân hiệp ra RG học đều kiếm nhà trọ gần trường nên tôi biết nhiều các anh ấy là vậy, thỉnh thoảng các anh ấy sang nhà tôi chơi và chỉ Toán thêm cho chị em tôi, các anh ăn nói nhỏ nhẹ nên Mẹ tôi có nấu món ăn nào ngon đều kêu các anh sang ăn
Nhớ lại ngày ấy rất vui anh ạ,
Còn anh Thấu tôi không nhớ anh ạ
Đúng Đào văn Thấu đó anh Phiêu ạ. Năm cuối ở NTT, tôi,Mục, Thấu và Minh cùng ớ trọ nhà bà Hai gần viện dưỡng lão, Thấu thích chơi bóng chuyền nên gần như chiều nào cùng đi do vậy thân hình rắn chắc trông rất đẹp. Còn Ánh thì đúng như chị TL nói, năm 1973 tình cờ tôi gặp cà hai vợ chồng ở Sàigòn, nhà đằng sau nhà thờ DCCT đường Kỳ Đống. Thời gian đi qúa nhanh, nhớ lại ,. thật bùi ngùi . Cầu mong cho chúng tha được an bình, mạnh khỏe, nhất là trong đại dịch này.
Anh Khiêm
Khoảng thời gian đó tại thị xã RG người Bắc rất ít nên tiếng Bắc cũng rất lạ đối với dân Nam kỳ RG chúng tôi, các anh sang nhà chơi hay gọi chị em tôi ngoài tên ra còn thêm chữ CÁI đi đầu như Cái Tuyết, Cái Bé ....nghe vui lắm
Tôi còn nhớ bài thơ anh Uy viết cho chị em tôi lúc bãi trường anh về Tân hiệp như sau
Từ nay xa chúng mầy
Tao chẳng biết nói gì
Bao giờ gặp nhau nhỉ
Ôn lại chuyện chia ly
Tuổi thơ thật đẹp anh Khiêm nhỉ?
Post a Comment