Chuyễn từ
anh Quang Đào
Thức chờ
chủ nhà, trong lúc chuyện trò với bà chủ, anh cố hình dung người chồng. Là một
nhà giáo, lại dạy Đại học, có lẽ là một người có vóc dáng bệ vệ, gương mặt mập
mạp sung túc và tự mãn bởi những gì đạt được trong đời… Khi người đàn ông hiện
ra nơi cánh cửa, mọi hình dung cuả anh tan biến, trước mặt anh là một người đàn
ông vừa người, có vẻ hơi gầy, cao và gương mặt thì hiền hâu với nụ cười cởi mở.
- Chào
anh, đợi có lâu lắm không?
- Không
Thầy ạ. Tôi cũng vừa đến thôi.
Bỏ cái
cặp da cũ lên chiếc ghế, chủ nhà quay qua người vợ:
- Em làm
nước uống nhé, anh không bận gì chứ?
- Vâng,
- Có lẽ
chúng ta nên anh em cho tiện, tôi sáu mươi, vừa xong thủ tục hưu, còn anh?
Thức vui
vì sự cởi mở thân tình của chủ nhà:
- Vậy là
tôi thua anh ba tuổi.
Anh đã
xem nhà, giá cả cũng đã thỏa thuận. Nhưng cả hai lần đều không gặp ông Trung,
chủ nhà thực sự. Việc chủ nhà yêu cầu gặp và nói chuyện với anh trước khi bán
làm anh cứ băn khoăn không biết có gì đó khuất tất về quyền sở hữu hay là một
mắc mướu gì đó về thủ tục…
Ngồi vào
bàn, Thức xoay nhẹ ly nước, im lặng nhìn ông Trung như chờ đợi. Ngồi nhích vào
cho bà vợ cùng ngồi, ông Trung nói:
- Hôm xem
nhà, anh có thấy căn phòng nhỏ nằm phía cuối hàng cau không?
Thức có
nhớ mang máng, căn phòng nhỏ nằm cuối khoảng đất chừng bốn mét bên hông nhà,
nhờ khoảng đất này mà căn nhà thêm giá trị, anh cho căn phòng có lẽ là nhà kho
hay bỏ trống nên không yêu cầu xem bên trong, giờ ông Trung nhắc đến làm anh
hơi bở ngỡ.
- Có anh,
nhưng thế nào ạ?
- Diện
tích nó là 4mx3m, mấy năm nay tôi cho hai cha con một người bạn ở, bây giờ bán
nhà, không biết họ sẽ thế nào?!
Thức hơi
ngập ngừng:
- Ông ấy
không cùng ông lên Di Linh sao?
- Bạn tôi
thì có thể nhưng cháu nhỏ đang đi học nên khó. Vì thế tôi không biết anh có sẵn
lòng giúp cho đến hết năm học này không, từ đây đến đó còn khá lâu?!
Thức hơi
ngập ngừng:
- Nhà tôi
cũng chỉ ba người, hai vợ chồng và đứa con gái vừa mới đi làm, cháu đầu lập gia
đình, vợ chồng cùng đi dạy ở Nha Trang… Nhưng tôi cũng bàn lại với nhà tôi rồi
sẽ báo lại với anh. Anh ấy làm gì hả anh?
- Anh ta
bị mù, ăn xin quanh Sài gòn với cô con gái.
Thức ồ
lên một tiếng nhỏ, thoáng chút ngỡ ngàng. Một người mù, ăn xin, lại là “bạn”
của một thầy dạy Đại học!
oOo
Ông Trung
làm thủ tục chuyển nhựơng và giao nhà thật nhanh chóng, có lẽ do ông khỏi phải
mua nhà ở Di Linh, cùng với sự nôn nóng của bà vợ, họ muốn lên trên ấy càng sớm
càng tốt.… Song thân của bà ấy đang phải sống những ngày già cả với nỗi buồn
quạnh vắng từ ngày cậu con trai đột ngột từ trần ở tuổi ba mươi chín. Không vợ
con. Hai tháng nay phải nhờ người cô cũng đã luống tuổi chăm nom.
Vợ Thức
không khó khăn gì với yêu cầu cho “người ăn xin” và cô con gái lưu lại một thời
gian trong nhà. Nhưng hơi tò mò về “người bạn” của ông Trung và tình cảm của họ
với nhau thế nào!
Chiếc xe
mướn chất đồ đạc lên xong thì cũng đã chín giờ tối, phần nhiều những đồ đạc gia
dụng để lại cho chủ mới, chi mang đi những gì cần thiết, thế mà cũng gần một
chiếc xe tải trung. Phải dành một góc xe cho chú chó giống Phú Quốc, không biết
sáng mai khi lên xe chú có chịu nằm yên không, hai ngày nay chú đã không chịu
ăn, cứ nằm nơi cửa phòng ngủ của ông bà mà rên ư ử! Bà Trung tuy nôn nóng nhưng
không muốn chạy đêm. Tài xế cho xe nép sát vào cổng nhà rồi đóng cửa cabin nằm
ngủ, bà cũng lên phòng mình, khi đi ngang qua hai người, bà nhìn ông Trung với
đôi mắt đỏ hoe !
Còn lại
hai người. Phòng khách giờ trống trải hẳn đi vì thiếu những cuốn sách trên giá,
những bức tranh trên tường… Chiếc bàn và
bộ sa lon vẫn còn nguyên nhưng mất đi mấy tấm hình của các đứa con ông Trung
chụp hồi nhỏ và tấm hình lớn ông Trung chụp cùng các thầy cô hồi dạy ở Đại Học
Đà Lạt.
Thức cười
vu vơ khi nghỉ: Một vài bức ảnh, vài cuốn sách, đôi khi lại là cái gì đó làm
nên không gian và sự sống một căn nhà. Anh lại liên tưởng đến đôi mắt đỏ hoe
của bà chủ nhà, lúc này chắc đang nhìn căn phòng thân quen với bao hoài niệm…
Ông Trung
đứng lên, đến bên chiếc bàn nhỏ kê sát tường, cầm chai rượu đưa ngang tầm mắt,
nhìn Thức cười:
- Chúng
ta làm vài ly chứ? Hai mươi mốt năm ở nhà tập thể, hai chúng tôi dành dụm lắm
mới tạo dựng được cáinhà này gọi là cơ ngơi… Giờ xa nó cũng buồn !
Thức ái
ngại đứng lên:
- Nên
lắm, nhưng anh để tôi đi kiếm chút gì đưa cay.
- Nhà tôi có mấy con mực… Nhờ bà ấy bật lò nướng chút là
xong.
- Thôi,
khỏi phiền cô. Với Sài gòn thì giờ này còn sớm mà anh.
Thức đứng
dậy, dắt xe ra ngõ. Khi tiếng máy xe nhỏ dần, ông Trung lên phòng ngủ, vợ ông
ngồi dậy, ông đến bên bà ôm lấy đôi vai, nhìn lên trần nhà nói thật nhỏ:
- Anh nhớ
hồi mua được đám đất này, anh mừng đến độ gặp ai cũng khoe, viễn cảnh thoát
được nhà tập thể như rất gần, vậy mà mười hai năm ki cóp nó mới thành hiện
thực! Hôm dọn nhà mới là sinh nhật lần thứ bốn mươi hai của em. Ôi, đúng là một
sinh nhật tưng bừng… Tưởng sẽ sống những
ngày an nhàn sau hưu trì, ai dè…
- Em có
buồn nhưng không tiếc đâu anh, lên cùng bố mẹ cũng vui mà. Dù sao, nơi ấy cũng
đã cho em những tháng ngày thơ ấu và thanh xuân thật tuyệt diệu… Anh không nhớ
những khóm dã quỳ và hai cây trạng nguyên ở cổng nhà sao?
- Có, anh
xin lỗi em, Nụ hôn đầu tiên của chúng ta cũng nơi ấy, khóm trạng nguyên tuyệt
vời!
Anh lại
ôm chi, lâu lắm rồi, cả hai tìm môi nhau, họ hôn nhau vụng về, nồng nàn… như thủa ban đầu, ở tuổi sáu mươi… và như thế cho đến khi nghe tiếng xe máy vào
ngõ.
oOo
Thức vào
nhà, như đã là chủ nhà chính thức, anh trải ra bàn nào thịt gà, sò và thịt dê
nướng…
Ông Trung
vụng về mở chai rượu, loại Rhemy Martin bình thường, rót đầy hai chiếc cốc trà:
- Nào,
chúc mừng cho cả hai nhé.
Thức cụng
thật kêu, có lẽ về khoản nhậu thì anh hơn hẳn chủ nhà, anh nhận thấy thế khi
thấy ông Trung loay hoay với cái nút chai. Rối cạn ly rượu trong khi ông Trung
chỉ nhấp một ngụm quá nửa cốc!
- Cái
khoản này thì anh cứ tùy nhé, coi bộ anh không “chuyên nghiệp” rồi.
- Ừ, mình
ngồi nhấp với anh em thì khá bền nhưng uống thì chỉ vài ly! Nếu hôm nay uống
không hết, vài hôm bạn tôi về, chú Thức nhâm nhi cùng anh ấy nhé. Anh ấy tên
Khả.
- Tiện
anh Trung nhắc đến người bạn, tôi hỏi một chút, vì sao mà anh quen và đưa anh
ấy về ở cùng?
Ông Trung
nâng ly rượu, nhấp môi, ông đã ngồi cùng Khả nhiều lần, thường thì từ tối đến
nửa đêm… Những mẩu chuyện đời Khả đan
xen những bản nhạc mà Khả cất lên tùy hứng… Giọng Khả ấm, trầm, khi lên cao thì
tha thiết nồng nàn, pha chút ray rứt, bâng khuâng… Ông Trung ngồi nghe mà tâm
hồn xao xuyến với những tang thương trong đời Khả…
- Khả cùng tuổi với tôi. Nhưng cuộc đời anh ta
thì gian nan lắm! Trước đây, đang đi học thì bị đôn quân, anh cưới vợ sau khi
đăng lính, trong một lần về phép, cô bạn học ngày nào đùa cợt vô tư cùng nhau,
nay bỗng duyên dáng hẳn ra trong mắt anh, đôi nhũ hoa ngày ấy ép sát sau chiếc
áo dài trắng muốt, nay nhô lên gợi cảm sau làn áo xoa màu huyết, đôi cánh tay
tròn lẫn với hai bàn tay mum múp đan vào nhau… nhất là đôi mắt nhìn anh vừa lạ lẫm vừa trìu
mến! Anh biết những ngày tháng trong quân ngũ đã giúp anh trưởng thành. Những
ngày chủ nhật ở quân trường, lang thang cùng các bạn ở Nha Trang, sau những
tảng đá, những vùng cát trắng mịn ở Đồng Đế… đã biến anh thành đàn ông…
Anh đã
cùng cô bạn học cho nhau hết những nồng nàn rạo rực và hoan lạc… và rồi đám
cưới vội vã đơn sơ diễn ra, như bao đám cưới trong thời chiến.
Năm 75,
vào những ngày giao tranh cuối cùng, cả nhà anh chết khi cùng nhau chen chúc
trong hầm vì một trái pháo, vợ anh sống sót bởi ở cùng bên ngoại, lúc này cô ấy
đang mang thai. Anh trở về, trơ trọi với nỗi lòng xót xa tuyệt vọng, bàng
hoàng, không muốn tin đó là sự thật! Khi nỗi đau tạm lắng xuống, anh tự an ủi
mình là từ nay thoát được cảnh lính tráng xa nhà, luôn cận kề cái chết.
Anh về ở
với vợ bên nhà ngoại, chưa bao ngày thì được gọi đi trình diện học tập. Chỉ cấp
bậc Trung sĩ mà anh cải tạo gần hai năm tận Tuy Hòa. Thời gian này chị vợ sinh
một cháu trai, nỗi mừng chưa nguôi thì đứa con chết khi tròn tuổi vì bị sốt
xuất huyết. Nghe tin, anh khóc lóc vật vã, ý tưởng quyên sinh chập chờn trong
đầu anh nhưng rồi anh nghĩ đến người vợ, cũng đang đau khổ, cô đơn nơi quê nhà…
Dường như
định mệnh muốn anh phải sống để cợt đùa thêm cho trọn trò nghiệt ngã ! Một buổi
sáng anh được nghỉ đi lao động, đang nằm trên chiếc sạp nứa, được gọi lên Ban
Quản Giáo, họ cho biết đã mãn hạn học tập, trả về địa phương. Anh mừng rỡ, hét
lên như một gã điên.
Khả trở
về. Hạnh phúc bên người vợ chưa bao lâu thì chị ấy nhuốm bệnh, da mặt ngày càng
tái xanh, mệt mỏi… những lần khám bệnh ở trạm xá với những viên thuốc nam không
giúp gì cho chị… Cuối cùng, chị bỏ anh
ra đi sau hai ngày đau đớn vật vã, những hạch bằng những viên bi mọc quanh cổ
chị, những lời cuối cùng chỉ là những tiếng ú ớ không rõ ràng, chỉ cái bóp tay
anh là có ý nghĩa! Chị mất vì chứng ung thư đường huyết!
Anh như
tê liệt hết cảm xúc, ngồi bên mộ vợ như một tấm bia bất động mấy ngày…
Đám tang
xong, anh đau liệt gần một tháng. Khi trở dậy thì đôi mắt mờ dần rồi mù hẳn!
Anh xem,
bấy nhiêu khốn khổ đổ lên một con người, tai ương này chưa nguôi thì họa khác
ập đến, dồn dập… nếu là tôi, chắc tôi không sống nổi!
Không
biết làm gì mưu sinh trong những ngày tháng sắp tới với đôi mắt mù lòa, cũng
không còn gì níu kéo nơi quê hương đắng xót… Khả đi xin ăn nơi này qua nơi khác
với cây đàn Guitar, nó là kỷ vật còn lại của thời trai tráng vô tư… rồi trôi
dạt tận Sài gòn.
Khổ đau
đến với anh ấy quá nhiều, nhiều đến dộ anh trở nên trầm tư, u uất… Nhiều lúc
tôi thở dài, tỏ ra xót xa cho những gì mà anh từng phải gánh chịu, anh chỉ nói
một câu, trong tiếng thở dài:
- Mọi sự
theo duyên mà đến, mọi sự theo duyên mà đi…
Bốn năm
trước, một người phụ nữ, ngồi nghe anh hát suốt ngày với đứa bé gái. Tối đến,
khi anh quờ quạng chiếc gậy đi về hàng hiên một ngôi nhà lớn mà lâu nay Khả
nương nhờ, chị theo anh rồi dịu dàng trải cho anh tấm chiếu. Những lời đổi trao
ít ỏi cho anh biết chị cũng thất cơ trở thành vô gia cư…
Chị trải
một chiếc chiếu khác bên cạnh anh, nằm với cháu bé. Không có gì đáng để mất mát
mà đề phòng… anh ngủ đến sáng. Tiếng khóc nức nở của cháu bé làm anh thức dậy,
người phụ nữ không còn, chỉ có cháu bé và một túi xách! Mắt không thấy nên anh
không biết làm gì hơn là vỗ về cháu, luôn miệng nói; “mẹ sắp về con ạ, mẹ đi
mua dồ ăn sáng cho con thôi mà… ”
Bà bán
xôi đem xôi đến cho anh như mọi sáng, nghe chuyện, bà gói cho cháu một gói, nói
với anh với giọng nghi ngại:
- Kiểu
này là đem con bỏ chợ rồi, coi trong túi xách là biết liền,
Một vài
người tò mò ghé lại. Chiếc túi khá đẹp. Hai bộ áo quần nguyên vẹn với một chiếc
đầm màu trắng tinh, vài cái áo cũ… Bên một ngăn kéo, bà bán xôi lôi ra một cái
ví nhỏ, hai tấm hình. một chụp toàn thân cháu, vào lúc chừng bốn tuổi với chiếc
đầm, một tấm chụp người đàn bà với người đàn ông, cả hai còn rất trẻ, tay bồng
cháu bé đứng trước một căn nhà lá, sau lưng là một con kênh um tùm chuối và cây
mỳ. Hai trăm năm chục ngàn kèm theo, ngoài ra không có gì nữa!
- Chắc là
anh ấy phải nhận cháu bé?
- Anh
nhận. anh nhận và xem đó là một diễm phúc trời ban… Hai cha con trở thành hành khách quen thuộc
trên các tuyến xe buýt: Bến thành, Gò Vấp, Bình Triệu, Tân Bình… Đôi mắt mờ đục
của anh và đôi mắt tròn ngơ ngác của cháu làm xúc động nhiều tấm lòng…
Hai năm
sau, nghỉ đến tương lai cháu bé, muốn cho cháu được đi học, anh đến phường này
xin làm khai sinh cho cháu. Hôm đó, vợ chồng tôi cũng có mặt để lo thủ tục nhận
hưu tại địa phương cho nhà tôi. Nhân viên hộ tịch chỉ chấp nhận làm khai sinh
khi có hộ khẩu hoặc ít ra là tạm trú, mà tạm trú thì phải có địa chỉ… Đôi mắt
của bé gái và vẻ mặt thất vọng của Khả làm nhà tôi không thể làm ngơ. Cô ấy
quyết định bảo lãnh hai cha con.
Chuyện đã
mấy năm nay rồi, giờ anh ấy đang về ngoài miền Trung làm giỗ cho gia đình và vợ
con…
Chiếc
đồng hồ cổ lỗ trên tường thong thả buông tiếng. đêm đã khuya… Trong căn phòng
im ắng, ngập tràn niềm thương cảm hoang mang, trong lòng hai người đàn ông dấy
lên niềm xao xuyến băn khoăn cho thân phận con người, giữa cõi đời mong manh…
oOo
Cậu Quý,
con trai út, là niềm vui của gia đình, là hạnh phúc của Bố mẹ vợ ông Trung.
Trong gia đình bốn gái một trai. Ba người con khác đều yên ấm ở nước ngoài. Từ
nhỏ, cậu hiền lành chăm chỉ, thích thẩn thơ trong vườn chè. đi câu cá… Nhưng từ
ngày vào Sài gòn học Đại học, ban đầu còn ở nhà chị, sau dọn vào Ký Túc Xá, rồi
nghe đâu mướn phòng riêng để ở cùng ai đó… Những năm về sau thì biệt tăm không
ai biết cậu ở đâu!
Cả gia
đình, nhất là hai ông bà già, sống trong lo âu và tuyệt vọng. Ông Trung tìm
khắp các khu nhà trọ vẫn không có chút tin tức gì…
Mãi nhiều
năm sau, một hôm, cậu đột ngột trở về làm ông bà mừng đến ngạt thở! Cũng ít
nói, nhưng ngày xưa thì vui vẻ hồn nhiên, nay trong cái im lìm như chất chứa
đều gì đắng cay, ray rứt.
Bà mẹ có
gợi ý với cậu lập gia đình, sau khi cậu về nhà độ một năm, nhưng cậu lắc đầu.
Thấy mẹ buồn rầu, cậu nói nho nhỏ:
- Con không làm chồng được mẹ ạ!
Từ đó đến
nay, bà không hề nhắc lại lần nào nhưng trong lòng, bà mong muốn một đứa cháu
nội biết là bao!
Hai ngày
bận rộn với việc thu xếp đồ đạc, hôm nay, bà Trung đi thăm mấy người bạn cũ.
Ông Trung vào phòng của cậu em xem qua, tiện thể sắp xếp lại để có chỗ đưa số
sách của ông vào. Kệ sách của cậu kê kín một khoảng tường, phần nhiều là sách
giáo khoa của những năm học trung học, xếp ngay ngắn ở những ngăn dưới. nơi
ngăn gần bản, ông Trung ngạc nhiên nhìn những cuốn sách viết về Phật Giáo, phần
nhiều còn mới, chứng tỏ mua từ sau khi cậu trở về.
Cuốn kinh
Bát Nhã với khổ nhỏ màu vàng, giấy láng thật đẹp, xuất bản ở Ấn quán Trúc Lâm,
Paris, Chữ Việt và chữ Phạn, nằm trên bàn. Ông Trung lật xem, trang trong có
hàng chữ ghi bằng bút bi:
“Con ạ,
Duyên- Nghiệp trùng trùng, chớ băn
khoăn. Quá khứ thì đã qua… đừng vọng tưởng sinh phiền lụy. Con và vợ, con của
con, chưa đủ duyên nên ly tán, khi đủ duyên ắt sẽ hợp. Nay con về phụng dưỡng
cha mẹ là việc nên làm…”
Ở dưới có
hai chữ: “Giác Viên.”
Cuốn kinh
sách và dòng chữ ghi như những lời khuyên dạy, làm dậy lên trong ông sự tò mò,
ngạc nhiên.
Trong một
ngăn khác, gồm nhiều xấp giấy rời, có cuốn sổ bằng giấy thường, đã vàng ố, ông
Trung lật xem, đó là cuốn nhật ký. Xem ngày tháng, ông thấy được ghi vào thời
gian Cậu ấy còn học Đại Học…
oOo
Ông Trung
miệt mài suốt buổi với cuốn nhật ký. Khi vợ ông vào thì đã quá trưa. Ông đứng
dậy dụi mắt… trên tay cầm mấy tấm ảnh đã
cũ. Ông nói với bà Trung, sắc mặt nghiêm nghị:
- Em ạ,
thời gian chúng ta không biết gì về cậu ấy có thể nói gọn lại như thế này:
Khoảng gần cuối năm thứ tư thì cậu yêu rồi có thai với một sinh viên. Hai người
về sống ở Tây Ninh. Cả hai bên đều không nói với cha mẹ, gom hết những gì có
thể bán được, họ làm một cái lều bằng lá, rồi đứa con gái chào đời… Hằng ngày,
cậu ấy chạy xe ôm kiếm sống. Họ đã sống cùng nhau trong hạnh phúc…
Chừng bốn
năm sau, cậu ấy bị một cơn bệnh nặng, chuẩn đoán viêm ruột thừa, bệnh viện phẩu
thuật vụng về, bị nhiễm trùng, phải phẩu thuật nhiều lần… Sau khi hồi phục một
thời gian… Cậu đau khổ vì thấy mình không thể làm công việc của người chồng,
cậu ấy không còn là một người đàn ông theo đúng nghĩa của nó!
Một hôm
chạy xe ôm trở về, câu không thấy vợ và dứa con gái ba tuổi. Nơi tờ giấy lịch
đặt trên bàn, nghệch ngoạc mấy dòng ngắn ngủi, cô ấy nói là về với cha mẹ ở Kom
Tum.
Cậu buồn
và thất vọng, vào một ngôi chùa đâu đó gần biên giới Campuchia… Ở đó cho đến
ngày về lại nhà. Cậu luôn nhớ con và ước ao được hôn nó một lần, đêm trước khi
bị tai biến, câu mơ thấy con, bàng hoàng ngồi dậy khóc rồi viết suốt … nước mắt
ướt cả cuốn nhật ký! Em xem mấy tấm hình này, có tấm anh thấy quen lắm mà không
nhớ đã nhìn được ở đâu …
Bà cầm
mấy tấm hình chăm chú… lát sau mới lắp bắp:
- Giống
tấm hình… chỗ con gái… anh Khả… anh ạ. Đúng là bé ấy rồi ! Ôi em ơi, ôi cháu
tôi! Chị tìm được con cho em đây Quý ơi!
Ông Trung
cũng vừa nhận ra, đưa tay lên môi ra hiệu cho bà đừng khóc lớn. Trong hình Cậu em
gầy và đen… nhưng cô bé thì rất dễ thương, người mẹ cũng đẹp dù ăn mặc đơn sơ.
- Anh gọi
điện cho anh Khả đem cháu lên Di Linh đi, giờ này anh ấy chắc vào lại rồi, em
hồi hộp quá. Ôi cháu gái tôi! Cha mẹ ơi, con ở bên cháu mấy năm nay mà nào biết
đó là máu mủ của mình!
- Anh sẽ
về đón, xin chuyển trường luôn. Vấn đề bây giờ là làm sao báo với ông bà Ngoại
mà không bị sốc. Rất nguy hiểm đó em ạ!
Bà Trung
ôm lấy chồng khóc rấm rức:
- Ôi cháu
ơi, cô có biết đâu cơ sự này!
Ông Trung
cũng nghẹn ngào:
- Giá mà
trước khi mất, Cậu ấy ghé thăm chúng ta một lần thì đâu nên nỗi…
Im lặng
một lát, ông buồn rầu nhìn ra ngoài vườn qua khung cửa sổ, lẩm bẫm:
- Ôi,
duyên - nghiệp… Sao quá muộn màng!
Trạch An -
Trần Hữu Hội
No comments:
Post a Comment