Sunday, June 16, 2019

Bức tranh vân cẩu: bát bún riêu

____________________



Khuyết Danh

Bài viết này của Khuyết Danh thật cảm động… “Trộm nghĩ: Tình cảm của cha không biểu lộ ra ngoài như của mẹ, nhưng thầm kín và phần lớn có tầm vóc cao hơn…” (KV DaiHocSuPham – VanKhoaSG@googlegroups.com)



Từ Auclair (Wisconsin) theo đường liên tỉnh 53 ngược lên mạn Bắc đến Salon Springs thì rẽ phải vào hương lộ P nhỏ hẹp ngoằn ngoèo lăn mình giữa những khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp, đi tiếp tục thêm dăm vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nivagamond, trạm đặc khu của người da đỏ. Trời vào thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng mầu hồng lựu. Hơn 1/2 giờ lái xe, không một bóng người ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi có cảm tưởng như lạc vào 1 hành tinh xa lạ nào đó: đồi lại đồi liên tiếp nối nhau, sau cùng tới Nivagamond. Nơi đây có viện dưỡng lão Lakeview mà theo lịch trình thì mỗi năm tôi phải đến 1 lần để thanh tra y vụ.

Lần đầu tiên đến đây, tôi không khỏi ngỡ ngàng tưởng dù hẻo lánh đến đâu thì ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh nhưng tuyệt đối không. Ngoài rừng phong đỏ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt mầu trời. Trung tâm an dưỡng Lakeview như tên gọi ẩn mình dưới tàng cây rợp bóng trên khu đất rộng. Quay lưng vô rừng thông, nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương. Tôi ngẫm nghĩ, nơi đây có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lãng, còn nếu chọn làm viện dưỡng lão thì hơi tàn nhẫn. Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá, y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai, người nào cũng bận bù đầu, rảnh rỗi đâu mà tán gẫu với những người già. Nhất là sau buổi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều đã về nhà thì bóng đêm chắc phải thật dài…
Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình, gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang dàn chào. Trên mỗi xe là 1 lão ông hoặc lão bà độ 7, 8 mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kỉnh. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn sững tôi như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh khác. Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhất tới đây chăng? Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ ấy của tôi bèn nhoẻn miệng cười: Ông ngạc nhiên lắm sao? Tôi ngập ngừng: “Bộ họ biết hôm nay tôi đến, nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt tôi?” Cô y tá khẽ lắc đầu, mỗi ngày đều như vậy, sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ, ông ạ. Chờ thân nhân tới đón? Dạ thưa không. Vậy hay là chờ bạn bè đến thăm? Cô y tá phì cười pha trò: “Ông nghĩ già ngần ấy tuổi mà còn hẹn bạn trai bạn gái sao?” Không, ý tôi là họ chờ vậy đó thôi… Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó… Rồi ngậm ngùi họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong ký ức. Cô ta khẽ thở dài: “Tôi làm việc ở đây hơn 10 năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh, tháng nào cũng có ít nhất một người mới tới hay người vĩnh viễn ra đi.” “Chắc ít nhiều lòng cô cũng có phần nào xao xuyến, phải không?” “Thật tình mà nói lúc đầu thì có đấy, nhưng bây giờ tôi đã quen rồi.” “Tôi nghĩ là cô rất mẫn cảm?” “Ồ… thật ra chỉ là do tập luyện thôi chứ bằng không thì sẽ ngã quỵ đó ông!”
Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên, một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo. Cô y tá nhìn ông ta và hỏi: “Ông đi lên thang máy hay là đi xuống?” Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe. “Ði…đi xuống, rồi đi…đi lên, rồi đi…đi xuống, đi lên…” Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đang hướng về phương trời vô định. Dường như quá quen với những hiện tượng này, cô y tá thản nhiên nói: “Vậy thì xin ông bước ra chờ chuyến sau sẽ có người đi với, chúng tôi đang bận.” Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa. Tôi thắc mắc: “Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao cô?” Chúng tôi đã lượng trước được điều ấy cho nên tất cả nút cắt điện trong viện đều gắn rất cao người già không thể với tới. À thì ra vậy…
Công tác xong trời về chiều, tôi từ giã. Cô y tá tiễn tôi ra cửa. Ðoàn xe lăn vẫn còn dàn chào… Chợt trông thấy trong góc tối có 1 ông lão độ trên dưới 80 đang cô đơn ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ. Ðiểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hòa nhập vào toán dàn chào. Da ông mầu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ lòa xòa trên trán, vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân da đỏ. Hiếu kỳ tôi hỏi cô y tá: “Viện dưỡng lão này cũng có người Indian hở cô? Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của chính phủ liên bang chứ?” Cô ta ngạc nhiên, ủa sao ông lại hỏi vậy? Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn, vậy người này không phải Indian sao? Cô y tá phì cười, ông ta là người Á Ðông đó ông ạ.Tôi giật mình: Người Á Ðông? Dạ phải, dường như là Việt Nam.
Thêm một lần kinh ngạc, tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo này cũng có người Việt định cư. Tôi bèn hỏi dồn, sao cô biết ông ta là người Việt. Dạ thưa ông, hồ sơ có ghi… Vậy thì ông ấy vào đây lâu chưa cô? Hơn 10 năm. Rồi cô khẽ lắc đầu: “Tội nghiệp, ông ta rất hiền lành dễ thương ai cũng quí mến cả. Nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh, cho nên suốt ngày cứ thui thủi một mình, không có bạn.” “Vậy thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm không?” “Một lần cách đây lâu lắm, hẳn có uẩn khúc gì đây.” Không cam tâm làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới thiệu: “Tôi cũng người Việt Nam.” Cô ta trố mắt: “Ồ, thế mà tôi cứ đinh ninh ông là người Trung Hoa.” Tôi cười: “Trong mắt người Tây phương, bất cứ ai da vàng cũng là người Tầu.” Cô ta pha trò: “Cũng đâu phải lạ, nhiều anh Tầu nhan nhản khắp nơi. Ngay trong xóm da đỏ hẻo lánh tít mù trên miền bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò vừa ngon vừa rẻ nhưng phải cái là…” Tôi nhoẻn miệng cười: “Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều, phải không cô?” Cô ta cười xòa: “Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm tầu là đâu vào đấy,có khi còn thặng dư là khác.”
Tôi quay lại vấn đề: tôi muốn tiếp xúc chào hỏi làm quen với ông lão người Việt, có thể ông ấy cũng đang cần nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp. Cô y tá mừng rỡ: Hay lắm, đó cũng là điều tôi mong muốn. Vùng này hẻo lánh quá nên không tìm ra người thông dịch. Nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì mà chúng tôi có thể đáp ứng không?Vâng, tôi sẽ cố gắng… Thấy tôi đi tới, ông lão ngước lên, nhíu đôi mắt hấp háy nhìn chầm chập, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng. Tôi gật đầu chào: “Dạ thưa chào cụ ạ.” Mặt chợt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động: “Dạ chào… chào thầy, thầy là người Việt à?” Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông: “Thưa cụ, cháu cũng là người Việt như cụ đấy.” Ông lại nghẹn ngào: “Cảm ơn Thiên Chúa, cảm ơn Ðức Mẹ từ bi đã cho tôi gặp được ông.” Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh, bắt đầu trò chuyện. “Thưa cụ, vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay là do Thiên Chúa và Ðức Mẹ sắp đặt?” “Ðêm nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên cho tôi gặp được người đồng hương.” “Có chuyện gì khẩn cấp không thưa cụ?” “Ðể được nói chuyện bằng tiếng Việt mình thôi.” Cụ thở dài: “Lâu lắm rồi tôi chưa nói hay nghe được tiếng mẹ đẻ.” Nhức trong tim, tôi bùi ngùi thương cảm, một ước mơ thật đơn giản mà sao quá xa vời đến vậy…
Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể: “Tên tôi là Tỉnh, Nguyễn văn Tỉnh, trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá. Tuy không giầu nhưng cuộc sống cũng sung túc. Tôi có vợ, 3 con trai, đứa lớn nhất còn sống thì giờ này cũng đã gần 60. Năm 75, Cộng Sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn, sẵn phương tiện trong tay tôi chở vợ con vượt thoát, nhưng chẳng may là sau 3 ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn tầu chìm. Tôi và đứa con út lên 6 được may mắn gặp tầu Mỹ nó vớt, còn vợ và 2 đứa con lớn thì mất tích, thầy ạ. Sau bố con tôi được bảo trợ về Louisiana, nơi đây có đông người đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tôi bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua tầu đánh cá làm việc ngày đêm, trước là để vơi buồn, sau là tạo dựng tương lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại của tôi. Tôi ước mong thằng bé sẽ theo cha học nghề biển nhưng nó thì không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ, kỹ sư ngồi nhà mát thôi chứ không chịu dãi nắng dầm mưa như bố… Thế nên thầy biết không, vừa xong trung học là nó quyết chọn trường xa để tiếp tục theo đại học.”
Ông ngừng lại một chút để dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:
“Tôi chỉ có mình nó, không thể sống xa con nên quyết định là bán hết tài sản để dọn theo, bạn bè ai cũng ngăn cản thầy ạ, nhưng tôi quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến cái tiểu bang này mua 1 căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn chút ít thì gửi vào trong quỹ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy không sung túc nhưng cũng nhẹ nhàng. Tuổi ngày một già thì sức khỏe càng yếu, năm ấy trời mưa đá, tôi bị ngã gẫy chân thầy ạ. Bác sĩ cho biết xương già thì không có lành được, phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Thằng Út ra trường có việc làm tốt ở Nữu Ước.”
“Tự biết là khó có thể theo con, hơn nữa cũng không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó, tôi xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước thầy ạ cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tôi làm thủ tục và hứa là khi nào làm ăn yên ổn sẽ đón tôi về. Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ, may thay trong lúc đang bối rối thì có anh bạn học người da đỏ mách cho tôi nơi này. Thấy con tôi buồn tôi bèn an ủi nó: Nơi nào cũng là quê người, cũng giống nhau thôi, thỉnh thoảng con về thăm bố là bố vui rồi. Thế là cả ngôi nhà lẫn tiền dành dụm phải trao hết cho viện dưỡng lão, dĩ nhiên là tôi được nhận…”
Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời có đàn chim chiều đang xoải cánh, ông chép miệng: “Chà nhanh quá, mới đó đã 10 năm rồi…” “Thưa cụ, thời gian qua chắc là anh Út vẫn thường xuyên về thăm?” “Ừ, một năm sau thì nó cũng trở lại, nó khoe tôi hình cô gái Mỹ và nói, dâu tương lai của bố đó. Rồi thầy biết không, từ đó biệt tăm luôn…” “Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy sao?” “Không… Thật tình tôi cũng không muốn biết nữa…” “Tại sao? Anh ấy là con duy nhất của cụ mà!” “Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy nhé?” Ông lão rơm rớm nước mắt: “Tôi sợ lắm, thầy ơi…Thà biền biệt như thế mà tôi vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở một nơi nào đó trên quả đất… còn hơn là biết tin buồn… Quả tình tôi không còn kham nổi nữa.” Tôi nghẹn lời… Lát sau qua cơn xúc động, tôi bèn hỏi: “Giờ đây cụ có còn ước nguyện gì, cháu sẽ hết lòng giúp cụ với tất cả khả năng, thưa cụ.” Ông lão thở dài, “Già rồi còn được mấy năm ở trước mặt, hở thầy?” Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng: “À, tôi thèm một bát bún riêu quá…”
Hai tuần sau, vào ngày Chủ Nhật, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm 2 bát bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi… còn đặc biệt có thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi đem tất cả vào viện dưỡng lão Lakeview. Như lần trước, ông lão người Việt vẫn ngồi trên xe lăn nơi cửa sổ cuối phòng. Bất ngờ thấy tôi, ông mừng rỡ kêu lên: “Ô kìa thầy, thầy lại về đây công tác hở?” Tôi chạy tới nắm tay ông. “Dạ thưa lần này cháu chỉ đến đây thăm cụ và có một món quà đặc biệt mang biếu cụ đây.” Lộ vẻ cảm động ông cụ nhoẻn cười, đôi mắt nhấp nháy. “Bày vẽ làm chi hở thầy, đến thăm tôi là quý rồi, thầy ơi.”
Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc… Tôi cũng mang theo 1 lọ cồn nhỏ để hâm nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi bỏ bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, chan nước dùng nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm lên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt. Nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba quả ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt. Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng: “Cám ơn thầy. Không ngờ hôm nay tôi còn được ăn bát riêu cua. Mời thầy cùng ăn cho vui.” “Cám ơn cụ, cháu đã ăn xong ở nhà. Xin cụ dùng tự nhiên, bún riêu còn nhiều, hết tô này cháu sẽ hâm tô khác.” Cụ trịnh trọng húp từng muỗng súp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon lành, như chưa từng được ăn ngon. Chốc chốc lại dừng tay lau mồ hôi, cụ luôn mồm khen tấm tắc: “Trời ơi, mắm ruốc thơm mà bún riêu ngon quá, thầy ơi.” Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ. Nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út thường xuyên thăm viếng cụ. Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình…Dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má hóp. “Trời ơi, sao tôi có được diễm phúc như vầy!…”
Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân, và dặn là khi có chuyện gì cần về cụ thì cứ gọi.
Năm sau, còn một ngày nữa là Tết, tôi đã chuẩn bị xong quà cáp: Trà thơm, mứt ngọt… dự định sáng hôm sau mồng Một đầu năm sẽ mang lên Lakeview mừng tuổi cụ. Ðang ngon giấc, chợt có chuông điện thoại, tôi nhấc ống nghe. Bên kia đầu dây là tiếng cô y tá trực của viện dưỡng lão Lakeview, “Có phải ông là họ Trần không?” “Dạ chính tôi đây.” “Thưa ông, cụ Tỉnh đau nặng.” “Có nguy không cô?” “À, đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện ở thành phố…” “Cám ơn cô rất nhiều. Mai tôi sẽ đến cụ.” “À, ông nên đi sớm hơn, sợ không còn dịp nữa.” Tôi rụng rời, ngoài trời tuyết rơi càng lúc càng nhiều, trời trở lạnh, gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng ngả như hằng vạn mũi tên bắn vào kính nghe rào rào như vãi cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xóa một mầu, tuyết phủ một lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi trợt xuống hố. Sau cùng cũng tới được bệnh viện Hayward. Cô y tá nhìn tôi ái ngại, “Thưa ông, suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó. Không biết có phải là ông không… Cô còn nhớ là ông ấy gọi tên gì không?” Chỉ một tiếng duy nhất, dường như là work hay Út gì đó. Tôi đã hiểu, cụ đã gọi thằng út.
Tôi hé cửa lách vào rồi ngồi xuống bên giường.Người ông cụ khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nhúm… Ông cụ chợt cử động rồi thều thào… “Út.. Út.” Nước mắt chực trào ra, tôi cảm thấy cần hành động một điều gì đó, trước khi vĩnh biệt… Tôi bóp nhẹ bàn tay già gầy guộc, nghẹn ngào: “Thưa cha. Con đã về đây…” Mí mắt ông động đậy, như cố nhướng nhìn lên… nhưng đã kiệt sức,từ từ khép lại, môi vẫn còn mấp máy: “Út.. Út, Út con…” “Thưa cha, con là Út đây cha. Con là đứa con bất hiếu đã quay về bên cha… Xin cha tha thứ cho con…”
Tôi cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cử động trong lòng bàn tay tôi, như cố nắm giữ đứa con yêu… Nước mắt tôi vô tình rơi xuống, làn môi khô nứt nẻ của ông cụ đang hé một nụ cười…
Gia tài ông cụ để lại là một bọc vải nhỏ, trong ấy có một tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.