Tuesday, December 21, 2010

Những huyền thoại về Santa Claus

___________________

Phạm Phong Dinh




Hai ngàn năm trước, vào một đêm đông giá buốt, những cơn gió lạnh từ phương Bắc kéo về rền rĩ trên những tán lá cây sồi, trong một chiếc máng cỏ mục cũ, trên đống rơm rạ khô xót trong một cái hang đá cô quạnh mờ mờ ánh bạch lạp ở một góc thành Bethlehem, thuộc nước Do Thái cổ, Chúa Jesus ra đời. Trên bầu trời đen thẳm, có một chiếc sao sáng lóa vạch một đường ánh sáng xuống cõi trần thế và dẫn đường cho Ba Vua Phương Ðông tìm đến với Ðấng Cứu Thế. Năm mà Chúa Jesus giáng sinh được đánh dấu mốc là năm thứ nhất kỷ nguyên chính thức của nhân loại, từ đó lịch sử được hình thành với hai ký hiệu: trước Thiên Chúa B.C. (Before Christ) và sau Thiên Chúa A.D. (After Day, tức sau ngày Jesus chào đời). Ngày mà Ðấng Christ chào đời, mặc dù còn nhiều sai lệch và tranh cãi tùy theo truyền thống lễ hội từng nước và niềm tin của những giáo hội khác nhau, nhưng nhân loại cùng chấp nhận lấy ngày 25 tháng Mười Hai mỗi năm Dương Lịch làm ngày tôn vinh Chúa Jesus xuống thế.

Bên cạnh ngày Giáng Sinh, thì ngày 24 tháng Mười Hai lại là một ngày mà cả trẻ con lẫn người lớn vòng quanh trái đất đều nô nức chào đón và tôn vinh một vị Thánh có rất nhiều công trạng rao giảng và đem đức tin Thiên Chúa đến với nhân loại. Ðó là Ông Già Noel, hay Santa Claus. Ông Già Santa Claus có thật hay chỉ là những câu chuyện huyền hoặc mà người ta lưu truyền từ ngàn năm trước cho đến mãi tận đến ngàn năm sau? Câu chuyện về một vị thánh có tên là Thánh Nicholas, tiền thân của Santa Claus, là hoàn toàn có thật. Câu chuyện Santa Claus cưỡi xe trượt tuyết với tám con nai chở đồ chơi bánh kẹo cho trẻ em trần thế là những huyền thoại dựa vào và cải biến từ cuộc đời thánh thiện của Thánh Nicholas mà chúng ta sẽ cùng được biết sau đây.
Có thể nói sau Jesus và Ðức Mẹ Maria, thì tên của St. Nicholas được nhiều người biết đến nhiều nhất. Tên của ngài cũng được đặt cho nhiều giáo đường nhất, trẻ sơ sinh được đặt tên thánh là Nicholas nhiều nhất, người ta kêu cứu và khấn nguyện tên ngài nhiều nhất trong những lúc cùng khốn hay nguy cấp. Như vậy, chắc chắn Thánh Nicholas phá kỷ lục Guiness về vị dẫn đầu danh sách các Thánh được kính yêu nhất, được trông chờ nhiều nhất mỗi độ đông về, không những của người Công Giáo, mà hầu như là của nhân loại toàn thế giới. Ngài là vị thần độ mạng của con người, giống như Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật Giáo, và ngài cũng là người đem niềm vui sống chứa chan đến cho cõi trần thế.
Năm 1969, Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã đã chính thức đặt vấn đề tra cứu thân thế của Thánh Nicholas, liệu ngài có phải là một huyền thoại hay không. Sử liệu còn để lại đã chứng minh ngài là một nhân vật có thật. Ngài sinh năm 280 A.D., trong một cái làng nhỏ tên Patara, thuộc vùng Tiểu Á (Asia Minor), mà ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhĩ Kỳ. Cha mẹ ngài đã đặt tên thánh cho ngài theo tiếng Hy Lạp là Nicholas. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy Lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn, trong đó có đất nước Thổ, theo tiếng Hy Lạp Nicholas có nghĩa là “Người anh hùng của dân tộc.” Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với người, ít nhất ở lĩnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh ngài tuy không phải là giàu có lắm, nhưng hai ông bà luôn luôn bố thí của cải và giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ từ nền đạo đức bác ái đó, với lời dạy của đấng sinh thành, rằng phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình, ngài đã trở thành một mẫu người thánh thiện, ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm đã giết mất hai ông bà thân sinh của cậu bé Nicholas lúc đó mới 12 tuổi. Cậu bé Nicholas tiếp tục đem tiền bạc bố thí cho người cùng khổ và miệt mài học tập giáo lý Thiên Chúa. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng, là có thể nghe thấy được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó, lập tức đến nơi cứu giúp liền. Trong lịch sử Công Giáo, có lẽ Thánh Nicholas là người được phong chức Giám Mục thành Myra ở độ tuổi trẻ nhất, lúc mới có 19 tuổi. Vì vậy bạn bè đặt cho ngài một cái biệt danh vui nhộn là “Chú Nhóc Giám Mục” (Boy Bishop), ngài cười cười nhận chịu và chẳng phiền lòng tí nào.
Trong thời gian hành đạo và cứu khổ, ngài đã bị một tai nạn lớn suýt chết, nhưng vẫn giữ được niềm tin tới cùng. Năm 303, lúc ngài mới 23 tuổi, vua La Mã là Diocletian tự nhiên cảm thấy mình cũng thuộc loại “tầm cỡ” thuộc cõi... trên, đại khái cỡ như... sao Võ Khúc hay Văn Xương trên trời giáng xuống trần, hắn buộc mọi vùng thuộc đế quốc La Mã phải xưng tụng hắn là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicholas và giáo dân địa phận Myra của ngài nào đâu chịu tuân phục. Ðối với tín đồ Thiên Chúa Giáo, chỉ có một vị thượng đế duy nhất. Vì vậy thầy trò Nicholas đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng ngài bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống cho đến năm 313, ông thần Diocletian bị hất xuống khỏi bệ thờ, vua mới là Constantine lên thay ra lệnh đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicholas thêm bền vững, ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển giáo hội, bố thí của cải và đem vô số người đến dưới chân Chúa. Ngài sống được 63 tuổi. Ngày 6 tháng Mười Hai, năm 343, Thánh Nicholas từ trần, để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi đến tận ngày nay. Một thời gian ngắn sau khi Thánh Nicholas từ giã trần thế, người Myra cùng nhau dựng lên một ngôi đền thờ ngài, trong đó an táng thánh thể, lưu giữ lại tất cả những vết tích và vật dụng của ngài. Ðến năm 800 A.D., Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Ðông Phương chính thức tuyên xưng ngài là Thánh. Trong con mắt của người Công Giáo, thì một vị Thánh là một đấng mà sau khi thăng thiên rồi, sẽ hiển linh và trở lại trần thế làm nhiều phép mầu để cứu giúp những người cùng khốn.
Có rất nhiều câu chuyện về Thánh Nicholas cứu giúp trẻ em và người khốn khổ được lưu truyền, chuyện nào cũng cảm động và chứa chan tình người. Ngài được người đời xưng tụng là thần hộ mạng của trẻ em, của thủy thủ, của người nghèo và của những người mang mển một nỗi niềm đau khổ nào đó cần được cứu giúp. Ba câu chuyện sau đây, trong đó có một câu chuyện thật về đức bố thí bác ái của Thánh Nicholas, mà đã khiến cho người trần thế tôn xưng ngài là vị Thánh hộ mạng của nhân loại.
Thánh cứu vớt
Câu chuyện kể về những người thủy thủ một chiếc tàu sắp bị đắm trong vùng biển Ðịa Trung Hải. Con tàu bị lạc giữa một cơn bão tố, va phải đá ngầm và bị thủng một lổ to, nước biển tràn vào ồ ạt, con tàu chòng chành ngã nghiêng và chìm dần xuống. Một vài thủy thủ chợt nhớ lại tên Thánh Nicholas hằng cứu giúp, mặc dù lúc ấy ngài đã tạ thế, lập tức họ cùng nhau quì xuống khấn nguyện tên ngài và khẩn cầu ngài cứu vớt. Ðột nhiên từ thinh không, giữa những làn nước giá buốt trút ầm ầm như thác, giữa những con sóng gầm thét điên cuồng, Thánh Nicholas trong chiếc áo giám mục màu đỏ từ từ hạ xuống giữa khoang tàu. Gió bỗng thôi gào, mưa bão ngưng tạnh và những con sóng thôi giận dữ. Thánh Nicholas cùng thủy thủ đoàn quì xuống tạ ơn thượng đế, rồi ngài cùng họ chèo chống con tàu ra khỏi vùng đá ngầm bằng một chiếc sào dài. Khi con tàu đã ra đến chỗ bình yên, thì ngài vẫy tay từ biệt họ, cất mình lên không và biến mất sau những đám mây trắng. Vẫn chưa chấm hết câu chuyện, con tàu cập bến Myra, đám thủy thủ cùng vị thuyền trưởng lên ngôi đền thờ Thánh Nicolas để làm lễ tạ ơn. Thật lạ lùng, họ thấy ngài đã hiện ra từ lúc nào và đang mĩm cười đứng bên bệ thờ nhìn. Một người hỏi, rằng làm thế nào mà ngài đã biết và đến cứu họ. Thánh Nicholas cho biết rằng, ngay từ thuở nhỏ ngài đã có năng khiếu siêu nhiên là có thể nhìn thấy người lâm nạn và nghe thấy tiếng kêu khóc của họ, vì đó là ý của Chúa. Từ câu chuyện này, mãi cho đến ngày nay, người Hy Lạp thay vì đập chai champagne để khánh thành một chiếc tàu mới hạ thủy, thì họ làm lễ khấn nguyện xin Thánh Nicholas bảo hộ cho họ được bình yên trên các nẻo đường hàng hải.
Của hồi môn
Thánh Nicholas được xưng tụng là Thánh hộ mạng cho những cô gái nghèo không có của hồi môn để có thể kiếm được một tấm chồng, qua câu chuyện ba túi vàng. Lúc ấy ngài còn là một thanh niên, trước khi thành “Chú Nhóc Giám Mục Thành Myra.” Một ngày kia ngài nghe biết chuyện có một người thương gia sạt nghiệp nọ nghèo đến nỗi không còn tiền bạc để làm của hồi môn về nhà chồng cho ba cô con gái. Có nhiều xứ Âu Châu, Á Châu từ xưa đã có một cái hủ tục là con gái phải có của hồi môn thì chồng nó mới chịu cưới. Các xứ như Pakistan, Ấn Ðộ vẫn còn giữ tục này, các cô gái lấy chồng không có của hồi môn nhiều cô bị chồng hành hạ, đánh đập dã man, thậm chí xẻo mũi, đốt phỏng da, v.v.
Ðộng lòng trắc ẩn, chàng thanh niên Nicholas tốt bụng chờ lúc đêm tối ôm một túi vàng đến bên cửa sổ, lúc cả nhà ông già khốn khổ đã ngủ say và quẳng túi vàng qua khung cửa sổ. Nhờ những túi vàng đó, ông thương gia gả được hai cô gái lớn. Nhưng đến lần thứ ba thì ông quyết định rình coi ai là ân nhân cứu giúp mình. Ông bắt gặp chàng trai Nicholas, nhưng chàng xin ông hãy giữ bí mật, vì chàng chỉ làm việc thiện theo ý của Chúa. Chỉ đến khi sắp sửa lìa đời, ông già mới tiết lộ cho con cháu danh tính của vị ân nhân. Cũng có người kể lại là, thay vì thảy vàng qua cửa sổ, thì chàng trai Nicholas leo lên chỗ ống khói lò sưởi và thảy túi vàng xuống rơi trúng vào mấy chiếc vớ đã giặt của các cô gái treo cạnh lò sưởi để hong khô qua đêm. Từ đó tục treo vớ hoặc đặt giày ống gần lò sưởi của trẻ em vào đêm Giáng Sinh, với niềm hy vọng sáng ra sẽ thấy quà tặng của Santa Claus nằm trong đó.
Thánh hộ mạng
Câu chuyện kể Thánh Nicholas trở thành Thánh hộ mạng cho trẻ con, bắt nguồn từ chuyện một lũ hải tặc người Ả Rập đổ bộ lên thành Myra đúng vào ngày 6 tháng Mười Hai, là ngày dân chúng đang tổ chức lễ hội tưởng niệm ngày ngài tạ thế. Chúng bắt đi một em bé trai tên Basil đem về xứ làm nô lệ, hàng ngày em phải phục dịch và hầu trà cho tên đầu lãnh. Cha mẹ bé Basil đau khổ quá, hàng ngày đến đền thờ Thánh Nicholas cầu xin cứu giúp. Một ngày kia, bỗng nhiên đôi vợ chồng nghe tiếng gõ cửa, họ suýt ngất xỉu vì vui mừng, khi trông thấy bé Basil mặc bộ quần áo Ả Rập, tươi cười, trên tay còn cầm cái tách trà bằng bạc. Basil kể lại là tự nhiên em cảm thấy như có ai nâng em lên cao. Basil quay qua nhìn thấy đôi mắt từ ái dịu dàng của Nicholas. Người gọi tên Basil và bảo em đừng sợ, ngài sẽ đem em về với cha mẹ của em.
Phép nhiệm mầu
Ngoài ba câu chuyện chính, còn có nhiều câu chuyện khác nói về đức tin của những người tàn tật, mù lòa, câm điếc đã kéo nhau mỗi năm về đền thờ Thánh Nicholas ngày 6 tháng Chạp để cầu xin ngài ban phép nhiệm mầu chữa cho. Mùa xuân năm 1087, trà trộn vào đoàn người hành hương này, một toán hải tặc người Ý ở vùng Bari bí mật đổ bộ lên hải cảng Myra dưới lớp áo của những thương gia hàng hải. Trong số 50 tên cướp, có bốn tên khôn lanh nhất được chọn ra thực hiện một công tác cực kỳ quan trọng. Sau khi dò la trước sau đền thờ Thánh Nicholas, bọn tiền sát nhận thấy chỉ có bốn người canh gác chiếu lệ, bọn chúng liền khệnh... nhẹ lên đầu mấy người này vài khúc củi là họ đã ngã ra nằm thẳng cẳng. Bọn cướp xông vào cướp đoạt tất cả những thánh vật, thậm chí đào xới khu mộ của Thánh Nicholas, bọc hài cốt của ngài trong một tấm vải, rồi cuốn gói xuống thuyền dông thẳng về Ý Ðại Lợi, tấp thuyền vào cảng Bari. Ở đó hầu như toàn thể dân Bari đã chờ sẵn, hoan hô rầm rĩ và đàn ca xướng hát, ngợi ca thượng đế. Lập tức giáo đường mang tên Thánh Nicholas được xây dựng tráng lệ để thờ phụng hài cốt và thánh tích của ngài. Theo quan điểm của người Ý, thì nếu để cho người Myra trông coi các di vật của Thánh Nicholas, người Myra hiền quá, không khéo sớm muộn gì cũng bị quân Hồi Giáo xâm chiếm và phá hủy thánh tích. Chi bằng người Ý “mượn” đỡ những thánh vật này đem về Ý bảo quản cho chắc ăn. Cũng cùng mối “tư duy” đó người dân thành Turin đã đem về được tấm vải liệm Chúa Jesus sau khi ngài bị đóng đinh chết để bảo quản và phụng thờ.
Dưới con mắt của người châu Âu, thì Thánh Nicholas là đấng mang niềm vui và quà tặng đến cho thế gian. Chẳng mấy chốc những người Công Giáo ở các nước Pháp, Hòa Lan, Ðức đều nghe tiếng Thánh Nicholas và đều tôn vinh ngài là vị Thánh của nước họ. Từ năm 1150, người Pháp đã tạo ra cho riêng họ một huyền thoại về Thánh Nicholas như sau.
Huyền thoại
Có ba cậu thiếu niên trên đường ghi danh tu học tại một trường đạo, không may bị tên chủ quán trọ cùng vợ phục thuốc mê, giết chết và chặt ra làm nhiều khúc để cướp đoạt tiền bạc. Chúng dấu mấy xác chết trong mấy cái thùng gỗ chứa giấm. Thánh Nicholas hiện ra dưới lớp áo một người ăn mày và vạch tội đôi vợ chồng này. Cả hai ăn năn sám hối và xin Thánh tha thứ. Thánh Nicholas cùng họ quì xuống cầu nguyện. Quá đỗi mầu nhiệm, ba cậu bé đã được hồi sinh từ cõi chết. Cho đến đầu thế kỷ thứ 15, khắp châu Âu đã có đến 2,000 nhà thờ lấy tên của Thánh Nicholas. Tuy vậy đến giữa thế kỷ thứ 16, tên tuổi của ngài và sự sùng bái ngài bị thui chột ít nhiều vì sự xuất hiện của một hệ giáo canh tân mới do một người Ðức tên Martin Luther khởi xướng, trong đó ông này bài bác những hiện tượng mà ông gọi là siêu nhiên, thần bí hay mê tín. Giáo phái mới của Luther được gọi là phái Protestant, những người tin theo Luther được gọi là những Lutherans. Giáo phái mới này rất phù hợp với chủ trương bất phục tùng Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã của vua Anh, cho nên người Anh lại phải chấp nhận một hình thái tôn giáo mới cải biến gọi là Anglican (Anh Giáo), từ đó hình ảnh Thánh Nicholas mờ nhạt dần và trẻ em Anh không biết Nicholas là ai nữa. Tuy nhiên người Anh cũng có cách lễ hội của riêng họ, bằng cách trở lại với khuôn mặt của một đấng mà họ gọi là Cha Christmas (Father Christmas), dựa theo hình ảnh thần Saturnalia mà người La Mã đem vào đất Anh khi xâm chiếm nước này từ năm 43 A.D.,
Nước Hòa Lan (Holland) tuy theo đạo Protestant, nhưng dân chúng vẫn tiếp tục thờ phụng Thánh Nicholas, bởi vì người Hòa Lan nghiêng về hàng hải, mà Thánh Nicholas lại là vị thần hộ mạng cho những người đi biển. Chính những người Hòa Lan đầu tiên vào Hoa Kỳ thiết lập thuộc địa tại vùng ngày nay là New York từ năm 1624, đã đem hình ảnh của Thánh Nicholas theo. Từ đó Thánh Nicholas theo các đoàn di dân đi khắp bốn phương. Cho đến sau năm 1783, là năm chấm dứt cuộc chiến tranh giành độc lập của người Hoa Kỳ với nước Anh, Thánh Nicholas chính thức là Thánh mang quà ngày Giáng Sinh cho trẻ em Mỹ. Nhưng dưới một nhân dáng mới và một cái tên mới. Ðó là Ông Già Santa Claus. Tên Santa Claus bắt nguồn từ tên gọi Thánh Nicholas của người Hòa Lan là Sinter Claes, người Hoa Kỳ đọc nhầm thành Santa Claus. Tên này được giữ nguyên đến ngày nay.
Santa Claus nổi tiếng và trở thành biểu tượng vui vẻ, là niềm hy vọng của trẻ em ngày Giáng Sinh, nhờ vào bốn nhân vật chánh sau đây.
Buổi tiệc vinh danh
Một người Mỹ gốc Hòa Lan tên John Pintard, là một nhà sáng lập Hiệp Hội Lịch Sử New York. Ngày 6 tháng Chạp, 1810, tức ngày kỷ niệm Thánh Nicholas thăng thiên, ông John thuyết phục Hiệp Hội tổ chức một buổi tiệc vinh danh và kể lại các mẩu chuyện của ngài. Buổi tiệc rất thành công và cứ mỗi năm sau đó, người ta tiếp tục tổ chức ngày lễ Santa Claus. Một văn sĩ tên Washington Irvin, một hội viên của Hội đã viết một quyển sách trong năm 1809 có nhan đề là The Beginning of the World and the End of the Dutch Dynasty (Sự bắt đầu của thế giới và sự chấm dứt của Vương Quốc Hòa Lan), trong đó ông mô tả rất nhiều về Sinter Claes, cách thức trẻ em máng vớ bên cạnh lò sưởi để chờ quà của Sinter Claes, thường xuất hiện trong mùa Giáng Sinh trên một cỗ xe ngựa. Cuốn sách của Irvin bán chạy kinh khủng, khắp nước Mỹ người ta tìm đọc sách của ông, có lẽ từ đó người ta truyền miệng nhau về tên Sinter Claes.
Một thi sĩ khác tên Clement Clark Moore trong thời gian đó có sáng tác một bài thơ trong năm 1822 nhan đề là “A Visit from St. Nicholas” (Một cuộc viếng thăm của St. Nicholas), mà về sau này được hoan nghênh nhiệt liệt, là bài thơ thứ nhất mô tả Santa Claus như là một ông già lùn mập mạp, vui vẻ qua hình ảnh ông già người Hòa Lan sửa chữa vặt trong nhà Moore. Santa Claus xuất hiện trong đêm Giáng Sinh từ trên trời cao trong một chiếc xe trượt tuyết do tám con nai kéo. Tuy nhiên người thứ tư, là một họa sĩ di dân gốc Ðức tên Thomas Nast, đã có công lớn nhất khi ông thiết kế mẫu vẽ về Ông Già Santa Claus theo lời yêu cầu của chủ bút báo Harper’s Weekly trong năm 1863, trong đó ông vẽ một ông già ngồi hút ống pipe nhả khói um trời, đọc thư xin quà của trẻ em trong căn nhà của ông ở tận mãi trên Bắc Cực lận.
Từ bốn yếu tố kể trên nhân vật huyền thoại không có thật là Santa Claus được biến cải từ nhân vật thánh thiện có thật là Sinter Claes đã đi sâu vào quảng đại quần chúng Hoa Kỳ. Hình ảnh Ông Già Noel, hay Santa Claus mà chúng ta có ngày nay là dạng biến thể cuối cùng của một loạt tiến hóa từ thời họa sĩ Thomas Nast.
Một chi tiết ít người biết, xuất xứ cuối cùng của nhân dáng Ông Già Santa Claus lại bắt nguồn từ công ty nước ngọt Coca-Cola. Năm 1931, Coca-Cola nhờ một họa sĩ tên là Haddon Sundblom chuyên về quảng cáo thương mại vẽ giùm cho một mẫu quảng cáo Santa Claus uống Coca-Cola. Họa sĩ Sundblom đã thiết kế rất thành công mẫu hình Santa Claus, một ông già lùn mập, mặt đỏ có hai cái gò má cao và bóng, miệng lúc nào cũng cười hệch hạc, mái tóc và chòm râu rậm trắng như cước, mặc một bộ quần áo đỏ dầy có viền lông thú trắng, cầm trên tay một chai Coca-Cola ra chiều khoái chí tử lắm. Thay vì ngày 6 tháng Chạp, người ta cùng đồng ý dời đến ngày 24 tháng Chạp mỗi năm để cùng cử hành lễ hội luôn với ngày Chúa Giáng Sinh.
Boxing day
Dân Tây coi vậy mà khoái ăn với chơi, ngày 26 tháng Chạp được chọn là ngày Boxing Day, thiên hạ được nghỉ và đua nhau đi mua hàng như điên. Nhiều người kể cả người Mỹ vẫn nghỉ tếu rằng ngày Boxing Day là ngày mà người ta... thụi nhau bằng thích và tưng bừng hoa lá như oánh bốc, chen lấn nhau để giành mua cho được những món hàng rẻ mà đẹp. Hoặc vả ngày Boxing Day là ngày mà người ta khênh về nhà từng đống thùng hàng với giá rẻ. Nhưng thực sự ý nghĩa ngày Boxing Day hoàn toàn khác hẳn, chẳng có thụi nhau, mà cũng chẳng có mua hàng. Nó bắt nguồn từ lễ tôn vinh Thánh Stephen ở nước Anh ngày 26 tháng Chạp mỗi năm. Thánh Stephen là vị sứ giả của Mười Hai Vị Tông Ðồ của Chúa Jesus được gửi đi rao truyền tin lành cho mọi người. Cũng giống như Jesus, ngài bị người Do Thái kết tội là chống lại niềm tin của họ và bị hành hình theo lối ném đá tới chết. Ðó là khoảng 35 năm sau Chúa thăng thiên. Trong ngày 26 tháng Chạp, các nhà thờ Anh đặt những cái thùng hay hộp phước thiện thu nhận tiền bạc của những người hảo tâm để mua thực phẩm và quần áo cứu giúp những người cùng khổ và những kẻ ăn mày. Từ ngữ boxing có nghĩa là đặt thùng trong nhà thờ. Một số truyền thống ở các nước khác, ngày Boxing Day là một dịp để người ta tưởng thưởng những người làm những công việc phục vụ công chúng, như các em nhỏ đi bỏ báo hay những người đi phát thư. Ngày Boxing Day đối với những ông chủ cửa hàng, có nghĩa là làm chuyện phước đức, là ngưng “cứa cổ khách hàng kính mến một ngày” bằng cách hạ giá một số mặt hàng.
Thần tặng quà
Thánh Nicholas thật ra không phải là vị Thánh đầu tiên được người dân châu Âu sùng bái như là một đấng cứu và tặng. Trước khi Chúa Jesus ra đời, người châu Âu cũng có những thần tặng quà riêng của họ, mà mãi cho đến ngày nay một số nước vẫn còn cử hành lễ hội ăn mừng riêng. Như trường hợp các nước Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, người tôn xưng Ba Vua Phương Ðông, hoặc còn gọi là Ba Nhà Thông Thái Phương Ðông, như là những Thánh ban tặng quà vật. Vì theo Kinh Thánh, ba nhà thông thái này đã đem ba món quà quí đến trao tặng cho Chúa Hài Ðông tại hang đá thành Bethlehem. Người Ý có bà phù thủy Befana, vì quá bận rộn nên bà không thể tháp tùng với Ba Vua đi đến Bethlehem để chào mừng Ðức Chúa. Sau đó bà hối hận vì để lỡ cơ hội, Befana đã bay khắp cùng trời cuối đất để đi tìm Chúa Hài Ðồng. Mỗi nhà có trẻ con bà ghé qua, bà đều để lại bánh kẹo và quà vật. Người Nga cũng có bà phù thủy tên Baboushkha, đã cố ý chỉ đường sai cho Ba Vua. Sau đó bà hối hận và hành động gần giống như bà Befana của người Ý.
Giờ đây, trong khoảnh khắc cận kề với những hồi tưởng trở về giây phút Chúa Hài Ðồng ra đời 2,000 năm trước, trong bầu không khí tươi mát vui vẻ của ngày Chistmas Eve với hình ảnh Ông Già Santa Claus đem đến tiếng cười cho trẻ thơ và những niềm hạnh phúc chứa chan cho nhân loại. Dường như trên thinh không có tiếng chuông ngân nga và tiếng hát của thiên thần chúc phúc cho người trần thế:
Sáng danh Chúa ở trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm...

No comments: