________________________________
TAM BÁCH ĐINH BÁ TÂM
Tân ngồi lặng yên trước máy vi tính (PC), phân vân suy nghĩ.... Anh vừa đọc một điện thư từ một đồng môn Hành chánh tên Nghi chuyển tiếp đến anh. Trong bức thư chuyển tiếp, cô y tá tên Hoà muốn biết tin tức người bạn gái, từng là nhân viên văn phòng quận biên giới LN khoảng năm 1970. Lúc đầu Tân ngần ngại, không muốn mất thì giờ để làm một “cánh nhạn đưa tin”. Nhưng để làm vui lòng người bạn đồng môn -hơn nữa Tân đã gặp cô cựu nhân viên văn phòng quận LN một đôi lần ở vùng Little Saigon này, nên anh bắt đầu dò tìm tin tức cô ấy . Một thời gian sau, anh gởi điện thư cho anh Nghi cho biết kết quả việc tìm kiếm tin tức cô nhân viên quận LN năm xưa.
Thế rồi vào một buổi trưa, Tân đang nằm xem TV, bỗng nghe tiếng chuông điện thoại reo vang. Một giọng nữ, có chút âm hưởng Miền Trung, vang lên từ đầu dây bên kia:
-Dạ, có phải nhà ông Tân không ạ?
Tân lịch sự trả lời:
-Vâng tôi là Tân. Xin lỗi, tôi đang nói chuyện với ai đây?
Giọng người đối thoại trở nên bạo dạn, thân mật hơn:
-Dạ, tôi là Hòa. Hôm trước tôi có nhờ người quen gởi điện thư để tìm bạn gái năm xưa làm việc ở quận LN... Nay chúng tôi đã liên lạc với nhau được rồi. Cám ơn anh nhiều lắm…
Tân toan nói vài lời xã giao rồi gác máy, nhưng bên kia đầu dây, giọng người nữ vẫn tiếp tục:
-Thưa anh, ông Nghi, đã nhận được điện thư của anh và sau đó có điện thoại cho biết tin tức về cô bạn thân của tôi ngày xưa. Nhân đó, ông Nghi cũng cho biết tên anh và số điện thoại để tôi tiện liên lạc cám ơn anh…Ông Nghi cũng giới thiệu anh cùng quê với tôi ở Phù Mỹ. Tôi đoán, anh là con cô giáo Diệu dạy trường cấp I trường An Lương, quận Phù Mỹ năm xưa, phải không thưa anh?…
Tân cảm thấy vui với tâm trạng “tha hương ngộ cố tri”:
-Đúng đó cô Hòa. Nhưng xin lỗi, tôi vẫn chưa biết rõ về cô…Ngày xưa có học với mẹ tôi không?
Cô Hoa bèn giải thích một hồi, như để làm dịu mối hồ nghi trong lòng kẻ “cố tri” mới biết nhau qua đường dây điện thoại:
-Tôi không học với cô Diệu. Nhưng lúc nhỏ tôi có theo mẹ đi chợ qua nhà cô giáo nhiều lần. Nhưng từ cuối năm 1954, mỗi khi có dịp đi qua ngôi nhà ở An Lương, không thấy bác gái và anh ở đó nữa…Nay liên lạc được với nhau, tôi thật mừng. Xin mời anh chị khi nào rảnh rỗi, đến nhà chúng tôi chơi. Để tôi có dịp thăm hỏi thêm về bác gái và về căn nhà năm xưa ở An Lương nữa chứ!
* * *
Ngôi nhà năm xưa giờ đây chỉ còn trong ký ức đầy kỷ niệm, nhưng Tân vẫn còn nhớ rất rõ về nơi chốn ấy. Vì từ thuở nhỏ, khi gia đình anh về ở với ông bà ngoại tại An Lương, căn nhà ấy trở nên chốn “thiên đường tuổi thơ” của anh. Đó là một ngôi nhà gạch, mái ngói, toạ lạc giữa những căn nhà tranh vách đất cổ xưa trong vùng. Căn nhà nằm trên con đường làng dẫn đến khu phố chợ không lớn lắm nhưng trù phú, kẻ mua người bán tấp nập từ sáng đến xế chiều.
Một khu vườn rộng hàng trăm thước vuông bao quanh căn nhà, với chiếc cổng mái ngói. Trong vườn trồng nhiều cây ăn trái mà gia chủ đem giống từ Sở Canh nông ở Sài Gòn về ươm trồng. Gia chủ đó không ai khác hơn là ông bà ngoại của Tân. Những cây dừa xiêm chen lẫn với những cây ăn trái vùng nhiệt đới, như mãn cầu dai, mãn cầu xiêm, tắc, xoài canh nông, hồng xiêm (sapotier), nhãn lồng…đã tạo nên một khung cảnh mát rượi trong khu vườn thênh thang. Trong những năm chiến tranh Việt Pháp, cuộc sống vật chất thiếu thốn, khu vườn ấy là nơi tiếp tế thêm nguồn thực phẩm cho gia đình anh.
Vào những buổi sớm, Tân nằm ở hàng hiên, lắng nghe toán thanh niên vừa chạy bộ vừa hát vang khi ánh bình minh chan hoà trên vườn cây trước nhà. Những buổi tối, toán thợ ép dầu, vừa đóng những nhát vồ cho mẻ dầu dừa cuối ngày, vừa hò - một điệu “hò lơ” đặc biệt quê hương anh. Tiếng hò vang vọng trong đêm vắng; não nuột như tiếng thở dài của người bị tình phụ; nuối tiếc như kẻ đã “Cầm vàng mà lội qua sông. Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”!
Thật ra, Tân không biết ngôi nhà đó xây cất từ năm nào. Anh chỉ nghe kể lại về quãng đời thơ ấu của mẹ, khi ông ngoại Tân mở lớp tư thục cho một số học trò tại địa phương đến học. Chứng tích của “lớp học tại gia” còn lưu lại ở căn nhà tranh bên nhà chính. Mãi gần ba mươi năm sau đứa cháu ngoại vẫn còn thấy những chữ viết xưa cũ bằng tiếng Pháp lưu lại trên tường! Hồi ấy, trong lớp học toàn là nam sinh, chỉ có một mình con thầy giáo là nữ sinh. Cô nữ sinh trở thành một bông hoa biết nói, nhưng ít cười; biết làm đẹp nhưng nghiêm trang với bạn đồng học khác phái! Người con gái ấy là mẹ Tân sau này. Sau khi đỗ bằng Sơ đẳng Tiểu Học, người nữ sinh duy nhất trong lớp học tư thục ấy thi đậu vào trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế.
Vào cuối năm học thứ ba, nhân một chuyến về quê nghỉ hè, cô được bố mẹ hỏi ý kiến về việc gia thất sau khi ra trường. Một anh bạn học cũ tên Nhân, cùng học lớp tư thục năm xưa, đã nhờ mai mối đến dạm hỏi cô. Người con gái thầy cũ của chàng đã nhưng cương quyết từ chối! Có lẽ vì thất vọng trước mối tình thầm kín đơn phương ấy, nên chàng thanh niên đã bỏ làng bỏ xóm, giã từ bố mẹ ra đi…Chàng ra đi để quên mối tình tuyệt vọng, hay để tìm một cuộc tình không làm cho trái tim chàng tan vỡ? Nào ai trong làng hay biết? Kể cả cô bạn học năm xưa!
Sinh sống tại thành phố Quy Nhơn một thời gian, chàng thanh niên tên Nhân ấy đã lấy một cô vợ mang hai dòng máu Hoa Việt, con một thương gia giàu có tại đây. Khi cô bạn học năm xưa tốt nghiệp trường Collège Đồng Khánh Huế trở về, thì chàng thanh niên dẫn cô vợ lai đến thăm gia đình thầy giáo năm xưa, cho “trọn nghĩa thầy trò”!
Còn cô bạn học năm xưa, tình cờ gặp và yêu một ý trung nhân- cựu học sinh trường Collège Quy Nhơn. Sau đó hai người thành gia thất. Đám cưới xong, hai người di chuyển vào làm việc tại Sông Cầu. Chàng là công chức toà án tỉnh Phú Yên, nàng là giáo chức trường tiểu học Sông Cầu, tỉnh lỵ Phú Yên lúc bấy giờ. Năm sau, đứa con đầu lòng ra đời tại thành phố thanh bình, rợp bóng dừa xanh, ngày đêm đón gió biển thổi vào mát rượi ngôi nhà hạnh phúc của họ. Cậu bé ấy là Tân sau này…
* * *
Ngọn cuồng phong “cách mạng tháng tám” năm 1945 đã làm đảo lộn cuộc sống người dân Việt Nam thuở đó. Và tiếp đến, cơn bão lửa “toàn quốc kháng chiến” bắt đầu từ cuối năm sau, đã làm tiêu vong biết bao sinh linh; tan nát biết bao nhà cửa; ly tán biết bao gia đình hạnh phúc ấm êm! Gia đình cô giáo Diệu cũng rời Sông Cầu, trở về quê bố mẹ ở An Lương, đi dạy học để sinh sống.
Lúc ấy, chiến tranh đã xảy ra khắp nơi trong nước, nhưng vẫn chưa lan tràn đến Bình Định. Tuy thế, những toán dân quân của Việt Minh đã bắt đầu đập phá, san bằng những ngôi nhà cao tầng tại tỉnh lỵ Quy Nhơn, theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”! Ngôi nhà gạch hai tầng của ông Mười Nhân - chàng thanh niên mười năm trước đã bỏ làng quê An Lương vào cưới vợ ở Quy Nhơn, cũng cùng chung số phận. Mất nhà mất cửa, hết phương cách làm ăn sinh sống, ông Nhân bèn thu vén tư trang tiền bạc, dẫn người vợ lai và cô gái nhỏ về làng xưa sinh sống…
Một hôm, bà Nhân dẫn con gái nhỏ đi chợ phiên An Lương. Người đàn bà một thời giàu sang, nay trở về quê chồng, lo buôn bán làm ăn như những người dân quê lam lũ nơi đây! Khi đi qua ngôi nhà thầy cũ của chồng, cô gặp lại con gái của thầy- nghe nói đã một lần từ chối lời cầu hôn của chồng cô năm xưa! Qua thời gian, qua bao biến đổi đau thương của xã hội, giờ đây hai người tỏ ra hiểu biết nhau, thân mật nhau hơn.
Khi hai người đàn bà đứng nói chuyện trước cổng nhà của ông ngoại Tân, cô bé Hòa nhìn vào khu vườn bên trong, rợp bóng nắng chiều. Nơi đó cô thấy hai cậu thiếu niên, đang đá bón, cười nói vui vẻ. Cô bé dán mắt nhìn hoạt cảnh ấy, mong ước được làm con trai để vào chơi với hai người con của cô giáo trong sân kia. Bà mẹ của Tân đến vuốt tóc cô bé hỏi:
-Cháu có muốn vào chơi với các anh không?
Thấy bé Hoà e thẹn không trả lời, bà quay sang mẹ cô bé:
-Tôi có ba trai và một gái. Chỉ có cháu Tân là con trai lớn, nhưng mới mười hai tuổi thôi. Ba nó đi làm xa, mỗi tuần mới về nhà một lần. Tôi đi dạy học về, sớm tối chỉ loanh quanh với mấy đứa nhỏ. Thỉnh thoảng chị ghé qua đây nói chuyện cho vui…
Cuộc “trưòng kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp” kết thúc với Hiệp định Genève năm 1954. Thành phố Quy Nhơn là nơi bộ đội và cán bộ VM tập kết xuống tàu ra Bắc. Một số người khác lo sợ bị bắt đi tập kết, bèn trốn chạy khỏi Bình Định. Trong số đó có bố của Tân.
Từ khi bố mẹ Tân dẫn các con ra đi, căn nhà tại An Lương trở nên vắng vẻ, đìu hiu. Những buổi theo mẹ đi chợ phiên, cô thiếu nữ tên Hòa nhìn vào căn nhà không thấy cô giáo và hai người con đang đùa chơi trước sân nhà, dưới bóng cây mát mẻ ấy nữa. Cô bé chỉ thấy thấp thoáng hai cụ già ngồi trớc hiên nhà. Con gà tây to xù mào đỏ lòng thòng đang đi qua lại ngoài sân. Và từ đó cô bé không còn gặp cậu thiếu niên tên Tân, con trai cô giáo Diệu nữa!
* * *
Hơn hai mươi năm sau, khi những con người CS, cũng với dép lốp, nón cối như hồi tập kết ra Bắc, đã quay trở lại miền Nam. Và với khí cụ giết người do Nga, Tàu cung cấp - súng máy AK 47, súng phóng lựu B40, xe tăng T54, … những kẻ hiếu chiến ấy đã gây ra không biết bao nhân mạng chết chóc, biết bao nhà cửa, công trình xây dựng nát tan; đã khiến hàng triệu người dân phải trốn chạy ra khỏi nước; đã nhốt hàng vạn “kẻ thua cuộc” vào những nhà tù “cải tạo” để chết dần chết mòn... Cũng như những người đã sống sót sau cuộc chiến dài hai thập kỷ, Tân đã ra đi tỵ nạn ở một xứ sở xa xôi bên kia bờ Thái Bình Dương.
Một hôm, anh nhận được một Video do người em gởi từ Sài Gòn gởi sang. Mở dĩa nhựa “Cô Giáo Về Quê”, anh thấy hình ảnh mẹ già, ngồi trên chiếc xe lăn do các con dìu đẩy. Vợ chồng em kế của Tân đã đưa mẹ già - cô giáo Diệu ngày xưa- trở lại thăm ngôi nhà ở làng An Lương, nơi mà gia đình bà đã dời bỏ ra đi từ năm 1954. Và tiếp sau đó, khoảng năm 1965, chiến cuộc đã lan tràn đến ngôi làng nhỏ bé, cách thành phố Quy Nhơn hơn năm mươi cây số, khiến cho ông bà ngoại của Tân cũng ra đi, bỏ lại căn nhà trống vắng.
Tân nhìn kỹ hình ảnh hiện lên từ cuốn Video. Hình bóng ngôi nhà năm xưa nay không còn nữa. Cái nền nhà với cỏ mọc hoang phế, chính là nơi hơn năm mươi năm trước đã ghi nhiều dấu ấn kỷ niệm êm đềm của gia đình Tân. Nơi đây, bốn mẹ con của anh đã từng sống quây quần bên nhau trong những năm kháng chiến chống Pháp. Chiếc vườn rộng, nhiều cây cối với bóng mát là nơi các anh em Tân chơi đùa thích thú. Và thỉnh thoảng anh trông thấy hai mẹ con của cô bé Hoà, trên đường đi chợ phiên, dừng lại ở chiếc cổng lợp mái, nói chuyện thân mật với mẹ Tân. Những lúc ấy, cô bé Hoà nhìn vào sân, thích thú nhìn các cậu con trai của cô giáo Diệu đang chơi đùa bên trong…
Lồng trong Video là bản nhạc Come Back to Sorrento của một nhạc sĩ người Ý, nguyên tác: Torna a Surriento của Luciano Pavarotti .
Lời Việt: Trở Về Mái Nhà Xưa của Phạm Duy:
Về đây khi mái tóc còn xanh xanh.
Về đây với mầu gió ngày lang thang
Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng.
Ôi lãng du quay về điêu tàn…
Lời hát trong nguyên tác Torna a Surriento(Hãy trở lại Sorrento), là lời trách móc một chàng trai đã rời xa Sorrento - một thị trấn xinh đẹp trên bờ Địa Trung Hải- Chàng ra đi, bỏ lại biển xanh, bỏ lại những khu vườn thoảng mùi hoa cam dịu dàng, cùng với lời nhắn nhủ “Hãy trở lại Sorrento”. Ca khúc đã trở nên quốc tế hoá. Lời hát diễn tả nỗi buồn xa xứ, mối hoài niệm quê hương. Người nghe nhạc ở khắp bốn phương trời, không thể biết thị trấn Sorrento thơ mộng tới mức nào! Nhưng sao nghe ca khúc, mỗi người đều thấy trong đó hình ảnh một nơi chốn đầy kỷ niệm mến thương?
Riêng Tân, một người tỵ nạn xa xứ, đã từng mơ ước trở về thăm căn nhà năm xưa để tìm lại chốn “thiên đường tuổi thơ”. Nhưng nếu có dịp trở về, anh sẽ không còn trông thấy ngôi nhà thuở ấu thơ nhiều kỷ niệm ấy nữa. Trải qua hai cuộc chiến tranh, người dân ly tán, nhà cửa trong vùng sụp đổ nát tan…nhưng ngôi nhà ấy vẫn còn đứng vững cho đến ngày chiến tranh chấm dứt. Có lẽ ngôi nhà ấy sẽ còn tồn tại lâu hơn nữa, nếu không bị những con người với lòng tham vô đáy, với lòng hận thù dai dẳng, đang tâm tàn phá, hủy diệt. Nơi đó, giờ đây chỉ còn lại dấu vết của tan nát, tàn phai…Riêng với Tân, ngôi nhà năm xưa giờ đây chỉ còn trong ký ức đầy kỷ niệm mà thôi!
Tam Bách Đinh Bá Tâm
No comments:
Post a Comment