______________
TRẦN MỘNG TÚ
TRẦN MỘNG TÚ
LTS. Bài này của tác giả Trần Mộng Tú đã được đăng trên DĐTK ngày 17 tháng Năm, 2014. Hôm nay chúng tôi quyết định đăng lại vì vấn đề nước mắm đang lên cơn sốt tại Việt Nam. Bài viết sẽ góp thêm một mảng tình cảm của một người Việt Nam với nước mắm, là một thứ thực phẩm lâu đời mà ông bà tổ tiên chúng ta vẫn dùng, và người Việt Nam vẫn sản xuất cho tới tận ngày nay. Và “ngày nay”, với những gì đang xảy ra tại Việt Nam, nó đang có nguy cơ bị xóa sổ.
Sang Mỹ cả gần bốn mươi năm rồi, thế mà mỗi lần
dọn cơm lên bàn cho chồng con tôi vẫn lúng túng với chén nước mắm. Hôm nay có cần
không? Bao giờ nhìn bữa ăn dọn ra, cũng chần chừ giữa có và không một phút. Cuối
cùng thế nào cũng phải rót một chút nước mắm vào cái chén nhỏ, đặt giữa bàn. Có
khi suốt bữa ăn không ai chấm vào, nhưng không có nó, hình như bữa ăn chưa gọi
được là hoàn tất. Dù sau này các con đã ra riêng, chỉ có hai vợ chồng, đã bỏ
thói quen ăn mặn, thế mà chén nước mắm vẫn luôn luôn hiện diện trong bữa ăn.
Thập niên đầu, khi các con còn nhỏ chưa dùng
nước mắm chấm trong bữa ăn thì tôi còn cha mẹ. Cha mẹ ăn cơm bao giờ cũng có
chén nước mắm, chanh, ớt để bên cạnh như một thói quen, một điều ắt có như cái
bát, đôi đũa vậy. Dù bất cứ hôm đó ăn món gì, có cần đến nước mắm chấm hay
không?
Rót chút nước mắm ra cái chén nhỏ, mùi thơm mằn
mặn bốc lên, như ngửi thấy cả quê nhà, sao mà nó gợi tình, gợi cảnh thế, nó Việt
Nam quá đỗi. Không có chén nước mắm, bữa ăn không gọi là đầy đủ được và lại
càng không phải bữa ăn của một gia đình Việt Nam. Đĩa thịt, đĩa cá, bát canh,
đĩa xào, bầy đầy bàn. Nhìn đi, nhìn lại, vẫn như thiêu thiếu một cái gì? À, thì
ra thiếu chén nước mắm. Thế là chưa ngồi xuống ghế được.
Ai đó cất tiếng:
Chưa có nước mắm.
Hôm nay, có món nào cần chấm đâu.
Sao lại không, cứ mang nước mắm ra đây, thế
nào cũng cần đến.
Thế là người đi tìm chén rót nước mắm, người
đi kiếm chanh ớt đem ra. Chưa có chén nước mắm, bữa ăn chưa bắt đầu. Chén nước
mắm sao mà quan trọng thế!
Trong những truyện viết về quê nhà nghèo khổ,
bao giờ mâm cơm nhà nghèo, không có thịt cá gì, cũng được tả bằng chén nước mắm
để cạnh đĩa rau cho cả nhà cùng chấm vào ăn với cơm hẩm. Chén nước mắm là phần
bổ dưỡng nhất cho cả nhà vì nó có chất đạm từ cá. Nó giúp cho miếng rau trở nên
đậm đà để miếng cơm hẩm dễ ăn hơn.
Chén nước mắm đó nhiều khi được chắt ra từ một
cái tĩnh nước mắm đặt ở trong bếp, hay ngoài mái hiên nhà. Tĩnh nước mắm mẹ làm
bằng những con cá cha đánh lưới đem về. Những con cá nhỏ sót lại sau khi đã lựa
những con cá lớn mang ra chợ bán để mua gạo, mua vải may quần áo, mua thuốc đề
phòng ốm đau.
Đôi khi chén nước mắm đó là chén cuối cùng
làm ra từ những con cá cha đem về. Vì lần đi biển vừa qua cha đã không trở lại
bờ nữa. Cả nhà chấm chung chén nước mắm đó thì làm sao mà quên được. Nếu một
người nào đó trong gia đình, thoát được cảnh cơ hàn, có đời sống khá giả hơn,
ăn những món ngon hơn, chắc đôi khi hồi tưởng lại, khó lòng mà quên được cái
chén nước mắm ngày xa xưa đó. Những giọt nước mắm thơm và mặn như những giọt lệ.
Sống đời văn minh, phú quý nên sinh lễ nghĩa.
Bây giờ trong gia đình ăn cơm chung với nhau, rất nhiều nhà không còn chấm
chung một chén nước mắm nữa. Không biết từ bao giờ, người ta nhiễm thói quen,
chén nước mắm của ai người đó chấm, chấm chung không lịch sự, không vệ sinh dù
là giữa những người trong một gia đình.
Từ chỗ riêng tư này chén nước mắm thành ra lạc
lõng, nó không được đặt ở giữa bữa ăn nữa, nó mất hẳn cái địa vị quan trọng cho
bữa ăn của cả gia đình. Chấm chung một chén nước mắm mới thấy cái ấm cúng, cái
tình chia sẻ trong bữa ăn.
Chỉ có mâm cơm của người Việt mới có chén nước
mắm. Nói không ngoa, chén nước mắm nhất định góp phần làm nên văn hóa ẩm thực
Việt Nam.
Từ chuyện ăn sang đến chuyện ngủ. Tôi nhớ ở
quê nhà, anh, chị, em, trai gái, lên bốn, lên năm thường được ngủ chung với
nhau, có khi đến bảy, tám tuổi vẫn ngủ chung giường. Gia đình khá giả một chút
thì có phòng riêng cho con trai, con gái, nhưng vẫn không có chuyện mỗi người một
giường. Với gia đình nghèo, khi còn bé, anh chị em đều nằm chung giường không
phân biệt trai gái. Nghèo hơn nữa thì cả cha mẹ và con cái nằm chen chúc ngủ với
nhau trên một cái giường trong gian nhà một phòng. Mùa hè quạt cho nhau, mùa
đông ủ hơi ấm cho nhau. Chuyện ngủ như thế thì chuyện ăn, chấm chung một chén
nước mắm là lẽ đương nhiên.
Những cô cậu của thời chấm chung chén nước mắm,
anh chị em nằm chung một giường này, khi đi xa họ có bao nhiêu điều để nhớ. Nhớ
lúc ăn thì phải nhường từ miếng cơm, phải nhịn từ giọt nước chấm. Lúc ngủ chị
co người lại nhường chỗ cho em nằm, anh chịu lạnh nhường chăn cho em đắp. Kỷ niệm
mặn và ngọt ùa vào đời sống, theo họ mỗi ngày, nhắc họ bổn phận phải bù ngang,
đắp dọc, sống sao cho đời sống có ý nghĩa hơn.
Chuyển sang đời sống Âu Mỹ hiện tại, mỗi người
phải có một phòng riêng. Nhất là trẻ em, trai và gái, chúng không phải chung phòng.
Ngay cả những người xin hưởng trợ cấp nhà cửa, nhà nước cũng xếp cho một căn
nhà có đủ phòng cho các em khác phái tính. Các em được học từ nhỏ: Cái này là của
tôi, không phải chia với ai cả. Sự riêng tư phải được tôn trọng.
Căn buồng nhỏ của cậu bé hay cô bé là chỗ
riêng tư, không ai có quyền được bước vào. Muốn vào, phải gõ cửa, phải xin phép
mới được vào. Vào rồi, cũng không được nhìn với cặp mắt kiểm soát. Ngay cả bố mẹ
chỉ làm việc này khi con không có mặt ở đó. Khi ăn thì miếng ăn nào đã chạm tay
vào là phải cầm lên, không được đặt xuống, miếng nào đã bỏ vào đĩa mình không gắp
sang đĩa người khác dù thân đến đâu.
Ăn riêng, ngủ riêng, mỗi con người trưởng
thành có một ốc đảo cho riêng mình.
Có buồn không nhỉ? Có người cho rằng, như thế
là dậy đứa trẻ đời sống văn minh, kỷ luật và tự lập. Nhưng đôi khi, sự ích kỷ
cũng đi theo nó.
Chẳng biết ở những vùng thôn quê Âu Mỹ, người
ta sống thế nào nhỉ. Có cái gì chung đụng mỗi ngày để làm hành trang nhét vào
túi trên đường tha hương không? Khi trưởng thành nơi xa lạ, có gì để nhớ?
Có chứ, chồng tôi lớn lên ở nông trại Mỹ, thuộc
vùng Dillon bang Montana (1949-1957). Anh kể cho tôi nghe về chuyện đi học. Từ
lớp một đến lớp năm học trong một phòng học (One-room school). Mấy nông trại liền
nhau chỉ có một cô giáo. Học trò nào may mắn ở trong nông trại có lớp đó tọa lạc
thì không phải đi xa, còn những trò ở nông trại khác cũng phải dậy từ sáng tinh
mơ để đến trường, học mấy tiếng và khi về thì trời cũng sắp sang chiều. Khi các
con lớn lên, nhiều gia đình gửi con ra tỉnh học, hoặc bán trại đi như trường hợp
gia đình chồng tôi, vì họ biết là họ sẽ có việc làm ở tỉnh (Mẹ chồng tôi là
Trung Úy Y Tá thời Đệ Nhị Thế Chiến).
Những thầy hay cô dạy ở “Một phòng học cho cả
trường” đó chắc chắn sẽ được học trò của mình nhớ đến khi họ đi xa, họ đã trưởng
thành.
Có khác gì lắm đâu với những lớp học của Thầy
Đồ ngày trước ở quê nhà Việt Nam.
Thời Suy Thoái Kinh Tế Thế Giới (Great
Depression 1929-1939) những bà mẹ Mỹ ở nông trại đã biết truyền tay nhau những
công thức nấu ăn không có muối, làm bánh rất ít đường. Biết mỗi chủ nhật, mọi
người mang thức ăn đến nhà thờ ăn chung với nhau để người có nhiều hơn chén đường,
muỗng muối chia sẻ cho người không có chút muối, đường nào (do đó có chữ pot
luck).
Những bà mẹ Hoa Kỳ khôn ngoan còn biết dùng
bao bột mì, bao thực phẩm gia súc may quần áo cho con mặc đi học. Họ nói người
chồng nông phu của mình đòi hỏi nơi bán bột mì, bán thực phẩm cho gia súc phải
in hoa vào bao thì họ mới mua. (Nên những xưởng bán thực phẩm đã cho in hoa vào
những bao vải). Tiền bạc vào thời kỳ khủng hoảng đó rất khó khăn nên công
thương, nông nghiệp phải nhượng bộ với nhau.
Trong cái trường chỉ có một phòng học đó có rất
nhiều em thấy mình mặc quần áo giống bạn (dù không phải là đồng phục) nên các
em hiểu thế nào là cùng chung sự thiếu thốn.
Hóa ra ở đâu những nông gia, những người
nghèo cũng có những nét đáng yêu trong đời sống khổ cực.
Đôi lúc làm vườn, nhớ đến quê nhà tôi hay
nghêu nghao câu hát: Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói/ Có những cánh
đồng cát dài/ Có luỹ tre còm tả tơi/ Ruộng khô có nhưng ông già rách vai/ Cuốc
đất bên đàn trẻ gầy/ Có người bừa thay trâu cày/ Làng tôi luôn luôn vương vài
đám khói/ Những mái tranh buồn nhớ người/ Xơ xác điêu tàn vì ai/ Nửa đêm thanh
vắng không một bóng trai/ Có tiếng o nghèo thở dài/ Vỗ về trẻ thơ bùi
ngùi. (Quê nghèo- Phạm Duy)
Đôi lúc tôi nghe chồng tôi kể chuyện nông trại
ở quê nhà, ngày còn trẻ, tôi cũng nhớ đến câu hát của anh học trò nghèo: When I
was just a youngster and hardly in my teens/ I went to school on many a day
with my faded old blue jeans/ The patches they were many the seat was all
thread bare/ But a poor girl didn’t notice and a poor boy didn’t care. (Life of
a poor boy- E.C McCarty)
Từ chén nước mắm trong mâm cơm Việt Nam đến
những chiếc áo may bằng bao bột mì trong nông trại Mỹ là một chặng đường thật
xa nhưng cho tôi nhìn thấy cái đẹp của sự chung đụng chia sẻ ở nơi nào cũng giống
nhau. Nhất là cái chung trong hoàn cảnh túng nghèo. Cái đẹp đó đi vào văn chương
và âm nhạc rung động mình suốt cả một đời.
tmt
Tháng 5/2014
Đăng ngày Thứ Bảy, tháng 3 16, 2019
No comments:
Post a Comment