Wednesday, October 1, 2025

Về mái nhà xưa!



 

Những kẻ tha hương cuối tuần hay tụ tập uống dăm ba ly rượu, văn nghệ cây nhà lá vườn, biết gì chơi nấy. Tiếng đàn ghi ta trầm buồn của một anh bạn văn nghệ, (mới gặp lần đầu), xưa vốn là một trưởng ca đoàn cho nhà thờ Tân Ðịnh, Sài Gòn, trải lòng với bản ‘ Về mái nhà xưa!’ (Come back to Sorento!)

Tui cũng góp buồn bằng cách diễn ngâm bài thơ ‘Chạm cửa thiên đường!’ của chính mình trên nền tiếng sáo trúc của Tô Kiều Ngân.

“Vượt trùng dương ngàn cơn bão. Em đã đến Nam Dương, đất nước ngàn, vạn đảo. Em chạm cửa thiên đường! Cửa chưa mở; cơn sốt rừng ập đến. Chiều thu buồn, em nằm lại Kuku!

Hòm Cao uỷ phủ thân người yêu dấu. Thay vòng tay anh ấm, tấm nilong! Mộ chí đề tên, ngày em mất! Mả lạn tàn phai; sương gió thời gian. Mộ chí khắc bằng dao để lòng đau, anh nhớ!

Rượu cay đắng mang theo rửa cốt người yêu dấu. Chiếc nhẫn cưới còn đây. thương hoài tay áp út! Anh hú, anh kêu; tiếng hú chiều tuyệt vọng! Ôi! em yêu! Ôi! đất hỡi! Trời ơi! Sao đóng cửa thiên đường? Khi bàn tay em chạm tới!

Bài thơ khóc em chiều Kuku; ngàn thu vĩnh biệt. Anh mang hài cốt em theo;mình vĩnh biệt Kuku! Kuku! Chiều thu lá rụng! Rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh?!”

Anh bạn văn nghệ mới quen nầy, mặt xương xương, vẻ khắc khổ nên trông già đi trước tuổi, sau cặp kính cận, hình như mắt anh rưng rưng đầy ngấn lệ… như cố che giấu đi một nỗi buồn sâu kín đã suốt bao năm!

“Tôi đâu ngờ bài thơ nầy tác giả lại là anh! Người anh đề cập trong bài thơ nầy, trong cái bi kịch đau lòng đó lại chính là bi kịch của một quãng đời tôi! Hơn 30 năm rồi còn gì nữa!”

***

“Tháng Sáu, năm 1982, lúc tôi chưa đầy 26 tuổi, cùng người vợ mới cưới đã liều mình xuống thuyền vượt biển. Sau một chuyến hải hành gian nan đã đến được Kuku, Nam Dương.

Kuku là tên một rẻo rừng dừa trên đảo Jemayah, thuộc quần đảo Anambas, tỉnh Riau, cách thủ đô Jakarta của Nam Dương hơn 1300km.

(Kuku có nghĩa là “Cậu”, âm theo tiếng Hoa! Vì cách đây hơn nửa thế kỷ có một người Tàu đã đến đây khai hoang để trồng dừa. Ông là một người tốt bụng, thường giúp đỡ dân nghèo nên được mọi người thương mến gọi bằng “Cậu”. Sau đó, dân địa phương ở đây đặt tên rừng dừa này là Kuku.)

Bây giờ, Kuku đang ở trước mặt! Bãi biển thênh thang ngày xưa bây giờ hẹp lại vì rừng lấn dần ra biển! Cầu tàu, rồi các dãy lều tạm cư đã biến mất vào hư vô? Chỉ còn xác mấy chiếc ghe vượt biên trơ sườn; vì cát biển theo hàng vạn đợt thủy triều, nắng gió đã chôn vùi phần đáy, nhưng thuyền vẫn còn ráng nhú mũi ghe lên nắm níu, như một bia mộ của một thời dâu bể… (Như bảo: Nhớ đừng quên!)

Cả một rẻo rừng rộng lớn, từng xôn xao bóng hàng ngàn người tỵ nạn năm nào, bây giờ chỉ là một vạt rừng dừa xanh ngăn ngắt, hoang vu! Vì khi những thuyền nhân VN cuối cùng rời Trại tỵ nạn Kuku để chuyển về Trại tỵ nạn Galang, để chờ đi định cư ở một nước thứ ba, chánh quyền địa phương thiêu rụi lều trại Kuku để phòng ngừa dịch bệnh.

Từ đấy, Kuku lại trở về hoang vắng, tiêu điều cho đến nay. Tôi không nhận ra cảnh cũ vì mọi dấu vết đã bị thời gian xóa nhòa gần hết. Ðâu rồi Văn phòng Cao ủy? Ðâu rồi Trạm xá của Trại Tỵ nạn? Ðâu rồi bãi đáp trực thăng trên đỉnh đồi nơi tôi đã từng chôn xác vợ tôi?

Một chiếc thánh giá bằng gỗ đơn sơ, tên em và ngày mất được khắc lên trên đó. Tôi đã chôn theo gương, lược, áo quần! Chiếc nhẫn cưới em vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.

Nhìn lên đỉnh đồi phủ mờ mây trắng như một dải khăn tang nghìn trùng xa cách khi chiếc tàu Cao ủy rời xa dần Kuku, tôi đã thầm nói lời từ biệt với em và hẹn ngày trở lại. Và hôm nay, hăm bảy năm sau, tôi đã giữ tròn lời thề năm cũ. Ai nỡ bỏ em mồ hoang cỏ lạnh cho đành phải không?

***

Huyệt mộ là một vùng đất sét pha cát, khá xốp, chứ không phải đá núi và khi chiếc quan tài của Cao ủy trong đó xác bọc bằng một tấm nilong lúc hạ huyệt cũng sâu tới chừng hai thước đất.

Giờ khai quật, cẩn trọng đào xuống gần hai tiếng đồng hồ, chiếc áo quan hiện ra, nắp ván thiên đã mục rã thành cát bụi sau thời gian dài đăng đẳng. Nhờ tấm bọc bằng nhựa khá dầy và chắc chắn của Cao ủy, xác vợ tôi được nằm trọn vẹn bên trong mà không bị xiêu lạc hoặc bị rễ cây đâm xuyên dù hài cốt đã bị phân hủy gần hết.

Khi hài cốt vừa được đưa lên khỏi huyệt mộ, trời Kuku bỗng đổ một cơn mưa rừng nhiệt đới! Mưa xối xả như giúp gội rửa thân thể lấm lem của những người phu mộ vất vả cả buổi sáng!

Mưa như để xóa nhòa đi những dòng lệ tiếc thương của tôi, những dòng lệ chất chứa qua bao tháng năm dài lầm lũi một thân trên bước đường tỵ nạn.

Cơn mưa rừng nhiệt đới ngày xưa phân ly, tôi đi, em ở! Và cơn mưa rừng nhiệt đới chiều nay tôi tìm lại em!

Trên nền xi-măng của bãi trực thăng dưới cơn mưa nặng hạt, tôi thu nhặt toàn bộ mẩu xương cốt, những di vật tôi đã từng chôn theo em, được bỏ trong chiếc bọc ni long. Những di vật như gương lược nầy, Hiền, một em gái nhỏ mới 14 tuổi đi chung chuyến thuyền vượt biển, nhắc: “Anh cho đem theo áo quần, gương lược để chị ấy xài…” Thịt xương vợ tôi đã rã tan nhưng chiếc nhẫn cưới vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.

Tấm mộ bia cùng với tấm bọc của Cao ủy cho, được gửi lại xuống lòng huyệt! Xin tạ ơn đất trời Kuku, dẫu quê người, vẫn rộng lượng cho xác thân em tạm nương náu suốt 27 năm qua.

Còn hài cốt của vợ tôi được hỏa thiêu ngay trên hai cái hố sâu đào trên cát. Ngọn lửa bùng lên và hài cốt dần dần biến thành tro trắng! Cát bụi đã trở về cát bụi.

Những tro vụn và tàn củi còn sót lại được gom vào hai chiếc bao lớn mang theo lên ca-nô để rải xuống biển trên đường tôi về lại Letung. Ráng chiều từ từ lặn xuống cuối chân mây! Hoàng hôn bủa lưới nhanh trên biển.

Nắm tro tàn của em, tôi sẽ mang về lại quê hương Việt Nam! Tôi bỏ chiếc nhẫn cưới ngày xưa lại vào hũ tro cốt của em trước khi gởi nó vào Nhà Thờ Tân Ðịnh.

“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.

Nghe hết chuyện tình buồn của anh, mắt tôi cũng rưng rưng đầy ngấn lệ! Chúng tôi cạn ly rượu đỏ như màu máu!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

_____________________

No comments: