__________________
NGUYỄN NGỌC HOÀNG
Nằm sâu trong vùng Đồng Tháp Mười, mẹ
tôi sinh ra và lớn lên trong một căn nhà sàn nằm bên bờ kinh khu 7. Rời gia
đình rất sớm, năm mười bảy tuổi mẹ tôi theo đoàn văn công Đồng Tháp trong thời
kỳ Việt Minh. Lúc bấy giờ quân đội Bình Xuyên của Bảy Viễn, tư lệnh phó khu 7,
lập tổng hành dinh cách nhà ngoại tôi không xa. Hai năm sau bà gặp cha tôi, yêu
nhau và làm đám cưới vội vàng trong khu chiến khi mẹ tôi vừa tròn tuổi hai mươi.
Một năm sau đó, cha tôi bị trúng đạn phải đưa về bệnh viện huyện Cao Lãnh. Bà nội
hay tin, cho người xuống bắt cha tôi về bệnh viện tỉnh Vĩnh Long và cắt đứt mọi
liên lạc với Việt Minh từ đó. Trông chờ không được tin chồng, mẹ tôi trên đường
ra khỏi chiến khu thì bị nhóm quân đội Bình Xuyên bắt giữ. Họ tình nghi bà là nữ
văn công làm “gián điệp” cho Pháp. Bị giam gần cả tuần lễ, ông ngoại hay tin
đem giấy chứng nhận và khen thưởng của Bảy Viễn mới lảnh được mẹ tôi ra. Thương
con gái, ông ngoại khuyên mẹ tôi về ở hẳn bên chồng và đừng trở lại khu 7, Đồng
Tháp Mười nữa. Từ đó cho đến cuối cuộc đời, những lần về thăm nơi “chôn nhao cắt
rún” của bà đếm chưa đủ 5 đầu ngón tay. Chỉ những lúc chạnh lòng, mẹ tôi thường
kể lại quãng đời con gái, về những buổi trình diễn văn nghệ trong chiến khu, về
vẽ đẹp của những cánh đồng sen bạt ngàn và cả món thịt chuột Đồng Tháp Mười mùa
nước nổi. Những giây phút hiếm hoi đó, tôi mới thấy mẹ mở lòng, gần gũi chúng
tôi. Ngoài ra thì bà ít nói, ít nói đến xa cách với con cái. Tôi rất thương, rất
ngưỡng mộ mẹ nhưng không gần gũi với bà.
Tháng Sáu năm 1976, tôi theo lời mẹ về thăm quê ngoại.
Đây là lần thứ hai tôi về thăm quê mẹ của mình sau 23 năm. Lần đầu tôi mới khoảng
5 tuổi nên không còn nhớ gì nhiều. Đang “thất tình” nặng và chờ sự phân công của
phòng tổ chức đại học sư phạm, nên tôi vội đi ngay. Để được tận mắt nhìn vẻ đẹp
của những cánh đầm hoa sen, để thưởng thức món chuột đồng quê mẹ... Cầm lá thư
tay của mẹ, tôi lấy xe đò về huyện Cao Lãnh, để rồi từ đó phải đi đò về khu 7 Đồng
Tháp. Chiếc xe lôi chở tôi từ bến xe đến đầu xóm là đã nghe thơm phức mùi bột gạo,
đúng như cái tên xóm Bún. Nhà cô giáo Muôn, người bạn trong lá thư tay của mẹ
tôi nằm ở đầu xóm Bún nên tìm rất dễ dàng. Mẹ dặn tôi gọi bà bằng dì, dì Muôn
là cô giáo tiểu học trạc tuổi bà, sống chung với gia đình hai người con gái
trong xóm Bún. Đêm hôm đó dì Muôn kể rất nhiều câu chuyện về mẹ tôi, lúc cùng học
tiểu học trong căn nhà lá dọc bên bờ kinh khu 7. Xong tiểu học, dì Muôn lên huyện
Cao Lãnh học tiếp trung học còn mẹ tôi nghỉ học phụ giúp gia đình và theo đuổi đam
mê ca hát của mình. Đêm càng khuya câu chuyện về mẹ tôi càng được dì Muôn kể lại
càng ly kỳ, lý thú. Những buổi đoàn văn nghệ của mẹ về ca hát cho đồng bào
nghèo khu 7 trong mùa nước lũ có dì Muôn làm khán giả. Những đêm văn nghệ trong
hành dinh chi khu 7 có tướng Bảy Viễn tham dự và đích thân trao giấy khen cho
cô bé trong đoàn vừa 17 tuổi. Cô bé ấy là mẹ của tôi…
Sáng hôm sau, tôi đón chuyến đò về khu 7, xã Mỹ An, Đồng
Tháp Mười trong tâm trạng bồn chồn, khó tả. Chuyến đò chật người và những kiện
hàng cho cuộc mưu sinh của người dân quê tôi. Con nước trên sông xuôi về quê mẹ
cũng rất lạ mắt đến khó tin. Vì là khu đồng bằng tràn ngập nước phèn hòa cùng
phù sa của dòng sông đổ xuống từ Cambodia (Cam-pu-chia), nên có khúc màu vàng đục,
có khúc trong thấy cá và có cả khúc nước sông màu xanh lơ thật đẹp. Hai bên bờ
là những khu rừng tràm bạt ngàn, dân cư thưa thớt, xa xa mới thoáng hiện thôn
làng nhỏ vài nóc nhà, khói tỏa vây quanh. Lòng tôi chợt chùng lại, đây chính là
vùng đất mẹ tôi sinh ra và lớn lên thành người… Sau 5 giờ đò thì tôi thấy phía
trước là những dãy nhà sàn chạy dọc theo hai bờ kinh. Người chủ đò báo đã đến
khu 7. Nước dâng cao sát mé nhà và ngập con đường vào nhà ngoại. Cả nhà mừng
đón đứa cháu gần 20 năm mới về thăm. Đêm hôm đó tôi nằm trằn trọc, khó ngủ vì
tiếng gió lồng lộng dọc bờ kinh và thương nhớ bâng quơ..!
Mấy ngày sau đó, tôi có dịp cùng cậu Út đi ngắm những
cánh đồng hoa sen bạt ngàn mùa nước nổi. Đẹp hơn sự tưởng tượng của tôi qua lời
mẹ kể. Hạt sen nấu chè và phơi khô uống trà thật thơm, tuyệt vời. Và một thứ
không thể thiếu là chuột. Nhất là vào mùa nước nổi, chuột nhiều, dễ bắt và thịt
rất thơm ngon. Cậu Út cho tôi tham gia cả
hai thứ, bắt chuột và bẫy chuột đồng. Buổi sáng sau khi lót dạ tôi, cậu Út và
hai con chó mực tinh khôn chống xuồng qua phía bờ kinh có trồng tràm để bắt chuột.
Cậu tôi xách chiếc thùng thiếc đi tới đi lui để tìm hướng chuột làm hang. Mà quả
thật như vậy, một lúc sau là những chiếc hang chuột nằm dọc theo bờ đất khoảng
giữa mấy gốc tràm. Hai cậu cháu chỉ cần
đổ nước vào hang cho ngập, là mấy chú chuột chạy ra khỏi hang. Dùng tay để bắt,
cây để đập (trường hợp của tôi) và hai chú mực sẽ trổ tài bắt chuột môt cách
tài tình.
Thiệt tình tôi
không thích cách bắt chuột này cho lắm, vì vừa sợ lại vừa có chút nhẫn tâm. Tôi
thích cách bắt thứ hai hơn, đi đặt bẫy chuột đồng. Cứ vào khoảng 3, 4 giờ chiều
cậu Út và tôi mang theo chừng 20 cái rập bẫy chuột bằng sắt. Bên trong bẫy là mấy
miếng mồi bằng trái cây như: chuối xiêm, dừa nạo, bắp luột, mít… nói chung là
loại trái cây có mùi thơm hấp dẫn mấy lũ chuột đồng. Mùa nước lũ đồng không ruộng
trống, nên đám chuột rất nghiền mùi vị của trái cây. Cũng giống như kinh nghiệm
tìm hang, cậu Út luôn phát hiện con đường mòn đi lại, tìm mồi của chuột để đặt
bẫy. Khi thì dọc theo bờ kinh, khi thì men theo những bờ ruộng nước ngập mênh
mông. Trời chạng vạng là lúc chúng đi ăn. Đến 8, 9 giờ tối thì hai cậu cháu soi
đèn đi thâu “chiến lợi phẩm” từ những chiếc bẫy ban chiều. Chuột mắc bẫy còn sống,
có thể ăn liền hoặc nuôi sống vài ngày sau ăn cũng không muộn. Chừng như người dân Đồng Tháp bắt
chuột không phải chỉ là thói quen, kinh nghiệm mà cả một thú vui dân dã vào mùa
lũ. Hơn nữa thịt chuột đồng thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng và lại vừa tiêu diệt
chuột phá đồng ruộng cho mùa lúa năm sau. Đó là mới nói qua “quá trình” để có
được những giỏ chuột đồng, còn điểm chính yếu thật sự, chính là những món thịt
chuột “ăn phải ghiền” trên mân cơm! Trong thời hơn nửa tháng ở miền quê mẹ, tôi
được dịp thưởng thức nhiều món thịt chuột. Nhưng đến mãi bây giờ, tôi vẫn còn
nhớ và thèm vô cùng ba món thịt chuột đồng:
1)
Chuột đồng chiên sả ớt
Đây là món tôi
yêu thích nhất. Chuột đồng chiên sả ớt có thể ăn với cơm, ăn với bún và cuốn
bánh tráng rau sống thì… nhớ đời luôn. Tôi thấy chuột đồng bắt về, mợt Út làm sạch để ráo nước, ướp với sả ớt băm nhuyễn
rồi thêm muối, bột ngọt, đường. Để khoảng mười phút cho thịt chuột thấm đều gia
vị, sau đó mới đem chiên trên lửa riu riu. Trong lúc chiên mợ út tay luôn phải
đảo đều để chuột chín vàng, dòn ngon hơn.
2) Chuột khìa nước dừa
Có thể nói món chuột khìa nước dừa là món “nhậu” ngon
nhất đời này. Mà phải là thứ rượu gạo từ lúa mới đầu mùa. Vừa thơm, vị nồng
ngòn ngọt có hậu và không bị nhức đầu sau bữa nhâu! Món chuột khìa nước dừa được mợ Út chế biến
khá cầu kỳ. Chuột sau khi bắt về, chặt đầu, lột da rồi khoét một lỗ nhỏ dưới bụng,
móc hết ruột ra. Sau đó dồn hỗn hợp gồm hành tỏi, ngũ vị hương, gia vị thông
thường vào bụng chuột, rồi cho vào chảo chiên. Khi chuột chín được vàng đều, mợ
sẽ vớt ra để cho ráo dầu rồi xếp vào nồi, đổ nước dừa ngập thịt chuột, hầm lửa
liu riu thêm lần nửa. Chuột phải hầm đến khi cạn nước sau đó tiếp tục châm nước
dừa vào đun sôi rồi nhắc xuống, thêm một ít đậu phộng rang cho thơm. Món này ăn
cơm thì cạo sạch nồi, ăn cuốn xà lách rau thơm thì hết rổ rau và nhậu với rượu
gạo lúa mới thì không phải tìm đường về nhà được nữa!
3) Chuột đồng nướng muối ớt:
Đây là món đơn giản nhưng lại “thấm thía” nhất. Chuột được
mợ Út luột sơ bằng nước nóng, bỏ da, rửa sạch và để ráo nước. Sau đó, mợ ướp
vài loại gia vị quen thuộc như muối, ớt, đường, tỏi... rồi đem nướng trên lửa than
củi hoặc than rơm rực hồng, cho đến khi lớp da vàng giòn, có màu nâu óng mở của
chuột đồng mùa nước nổi. Cũng giống như món khìa nước dừa, thịt chuột đồng nướng
muối ớt thì tốn cơm vô cùng và nhậu với rượu nếp hoặc rượu gạo thì người yêu có
“mặn mà” đến mấy cũng đành hẹn lại hôm sau.
Tất cả rồi cũng trôi xa. Thời gian như
con nước của dòng kinh khu 7 quê mẹ, chảy miên man qua bao nhiêu cuộc đời
thoáng chốc. Có bao nhiêu mùa nước nổi đã qua. Và có bao nhiêu mùa nước lũ nữa
sẽ về. Hay tất cả sẽ trở thành câu chuyện kể cho những thế hệ mai này. Dòng
kinh khu 7 giờ đây đang cuộn chảy hay cũng thổn thức trong đêm nhớ thương về một
mùa nước rất xa. Những con chuột đồng quê mẹ có còn chỗ để làm hang, có còn những
đường mòn lối nhỏ chạy mênh mông trên những cánh đồng nước một thời. Nhưng
trong tôi, nhiều đêm chợt giấc, nằm trăn trở nhớ vô cùng con nước xuôi dòng
kinh khu 7, nhớ những hương vị món chuột đồng đến nghẹn ngào. Tất cả vẫn còn đó,
con sông quê mẹ xuôi một dòng ký ức, như sợi tơ vàng cuộn lấy bao thương nhớ
không nguôi…
North
Carolina, năm Canh Tý 2020
Nguyễn
Ngọc Hoàng
No comments:
Post a Comment